Cháu Kim Hoa kính tặng Ông -Bà

Cháu Kim Hoa kính tặng Ông -Bà Blog này, nơi Lưu giữ những bài viết về Cụ Đỗ Đình Thiện- Trịnh Thị Điền

Chủ Nhật, 30 tháng 1, 2011

BÌNH DỊ MỘT CUỘC ĐỜI

Phần thứ nhất




BÌNH DỊ MỘT CUỘC ĐỜI









“Dấu xưa ai biết đâu tìm, 
Thương ai bẩy nổi ba chìm nước non.”

                                Sóng Hồng



                                                       Ông Đỗ Đình Thiện – Hà Nội - 1955


1. THUỞ ẤU THƠ
Ông Đỗ Đình Thiện sinh  năm 1904 (Giáp Thìn) tại Hà Nội. Thân sinh ông Thiện là cụ Đỗ Viết Bình, thân mẫu là cụ Trần Thị Lan. Ông Thiện là út trong gia đình, có hai anh và một chị: Đỗ Viết Dung, Đỗ Thị Hiên, Đỗ Văn Tùng[1].
Thân sinh ông Thiện, cụ Đỗ Viết Bình, quê ở làng Noi, nay là xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Lúc sinh thời, Cụ Bình đã từng làm thư ký cho một chủ đồn điền người Pháp ở Tuyên Quang, nhưng chẳng may cụ lâm bệnh mất sớm, lúc 30 tuổi, và khi đó ông Thiện mới tròn 5 tháng.


         Ảnh: Cụ Trần Thị Lan (ngồi hàng đầu, bên phải) với một số thành viên trong đại gia đình Người đứng phía sau cụ Lan là ông Đỗ Đình Thiện

Thân mẫu ông Thiện, cụ Trần Thị Lan, quê ở làng Kẻ thuộc Hà Tây. Góa chồng từ năm 28 tuổi, cụ Lan ở vậy thờ chồng nuôi con, mặc cho không ít người tử tế theo đuổi, đòi lấy. Xuất thân là con gái nông thôn, sau khi lấy chồng, cụ Lan đã sớm tìm đường ra tỉnh làm ăn: buôn tơ, ướp chè sen, chế rượu chổi …Vốn chịu thương chịu khó, cụ đã tần tảo gây dựng nên một cơ nghiệp, tuy không giầu sang, nhưng vững chắc, đủ nuôi dưỡng các con lớn khôn và được học hành. Những năm trước kháng chiến chống Pháp, cụ có tiệm buôn tơ khá lớn ở 72-74 Hàng Gai, Hà Nội.
Không được đến trường học, nhưng cụ Lan thuộc rất nhiều ca dao, tục ngữ, tích thơ, mà nội dung chủ yếu là những điều dăn dạy đạo lý làm người. Rất coi trọng đức tính tiết kiệm và tinh thần tự lập, Cụ thường đọc cho con cháu nghe những câu như:
“Buôn tầu buôn bè không bằng ăn dè, hà tiện.”
“Dạy vợ có dưa đừng gắp mắm,
  Khuyên con bớt gạo, cạo thêm khoai,
  Ai cười hà tiện, ta chịu vậy,
  Chẳng phiền ai, chẳng lụy ai.”
Tiết kiệm đối với bản thân, nhưng Cụ rộng lòng giúp đỡ mọi người. Cụ đã xây cầu, xây quán cho làng, giúp đỡ, tạo dựng cho nhiều bà con họ hàng lên tỉnh làm ăn. Cụ đã từng ủng hộ tiền cho Đông Kinh Nghĩa Thục, và sau này cho báo  “Le Travail”. Nói chung, Cụ đã để lại nhiều ân nghĩa và tiếng thơm ở cả hai quê, hai họ. Bà con quen gọi Cụ một cách trân trọng bằng cái tên “Cụ Ký Hàng Gai”.
          Được nuôi dưỡng trong hoàn cảnh mất bố từ 5 tháng tuổi, mẹ buồn phiền, mất sữa, ông Thiện thời thơ ấu là một cậu bé gầy yếu, biếng ăn. Cụ Lan rất thương cậu con út sớm mất cha, còn cậu bé Thiện, không còn bố, cậu dồn cả tình thương cho mẹ. Chuyện kể rằng, hồi bé ngủ với mẹ, cậu bé Thiện cứ phải nắm dải yếm của mẹ thì mới chịu ngủ…
         

2. THỜI NIÊN THIẾU
          Hai anh ông Thiện, các ông Đỗ Viết Dung và Đỗ Văn Tùng, đều đã theo tây học, nên thân mẫu ông Thiện muốn cho ông học chữ Nho để sau này giúp cụ đọc các giấy tờ, văn tự. Thế là ông Thiện đã theo học 4 năm chữ Nho với một ông thầy đồ dạy học theo kiểu cổ, rất khắc nghiệt, dạy thì ít mà đánh phạt học sinh thì nhiều. Những kỷ niệm về thời kỳ này đối với ông Thiện không mấy dễ chịu, và cuối cùng ông đã thôi học chữ Nho, chuyển sang học chữ quốc ngữ ở trường Hàng Vôi, Hà Nội.

                                           Ảnh minh họa: Phố cổ Hà Nội  (Rue des Caisses), 1943

Nhiều cá tính của ông Thiện đã hình thành từ thời kỳ này, trên ghế nhà trường: thẳng thắn, trung thực, kiên quyết bênh vực lẽ phải, và, mặc dù nhỏ người, ông không chịu để ai cậy sức bắt nạt mình và bạn bè mình. Trong phong trào để tang cụ Phan Chu Trinh, ông Thiện đã tham gia tích cực và bị đuổi học, phải đổi giấy khai sinh, xuống Nam Định học tiếp.
          Năm 1927, ông Thiện quyết chí xin mẹ cho đi Pháp học. Tôn trọng ý nguyện của con, nhưng trong thâm tâm không muốn dời xa con, cụ Lan - mẹ ông đã nghĩ ra kế hỏi vợ cho ông với hy vọng, vì quyến luyến vợ chưa cưới, ông Thiện có thể sẽ từ bỏ ý định du học. Thời bấy giờ, có hình thức chơi họ: một số gia đình quen biết tin tưởng nhau quy định hàng tháng mỗi nhà đóng góp một số tiền, và lần lượt mỗi nhà sẽ được sử dụng toàn bộ số tiền đóng góp của một tháng. Như vậy mỗi gia đình, luân phiên, sẽ có được trong tay một món tiền đủ lớn để giải quyết công việc cần thiết. Cô gái mảnh mai, xinh xắn, dịu dàng Trịnh Thị Điền, ở phố Hàng Mắm, thường tới nhà cụ Lan thu tiền họ. Ưng người, ưng nết, cụ Lan quyết định dạm hỏi cô Điền cho ông Thiện. Chuyện kể lại rằng, nhiều ngày, mới sáng tinh mơ, cụ Lan đã đột xuất đến “thăm” để xem cô Điền có dậy sớm không, ăn ở có ngăn nắp không, có chăm chỉ việc nhà không…Thế là một ngày đẹp trời, chàng trai 24 tuổi Đỗ Đình Thiện và cô gái 16 tuổi Trịnh Thị Điền đã chính thức gặp mặt. Qua trao đổi chuyện trò, cả hai bên đều có thiện cảm và ưng thuận. Tuy nhiên, ông Thiện vẫn không từ bỏ ý định du học, và họ thỏa thuận đính ước nhưng không buộc nhau nhất thiết phải đợi chờ.
          Ông Trịnh Đình Cửu[2] vốn là bạn học của ông Đỗ Đình Thiện ở trường Hàng Vôi. Ông Cửu muốn vân động ông Thiện tham gia hoạt động cách mạng cùng với mình, nhưng lúc này ông Thiện đã sắp lên đường đi Pháp rồi nên không thể nhận lời. Một người bạn ông Thiện đã chứng kiến và kể lại mẩu đối thoại (bằng tiếng Pháp) như sau giữa ông Cửu và ông Thiện:
- Anh có bầu mấu nóng không? – ông Cửu hỏi.
- Chừng nào tim tôi còn đập thì máu tôi còn nóng. – ông Thiện trả lời.
Ông bạn kể lại câu chuyện này nói rằng, khi nghe được những lời đầy tâm huyết và “nguy hiểm” ấy, ông thấy lạnh cả người.

3. DU HỌC VÀ DẤN THÂN (1927-1932)
Tại Pháp, ông Thiện theo học Trường kỹ sư canh nông Toulouse.
Năm 1928 ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp, hoạt động, đấu tranh vì giải phóng dân tộc. Ông từng được Đảng Cộng sản Pháp cử đi Liên Xô học Trường Phương Đông Staline, nhưng vì lý do sức khỏe, ông không ở Liên Xô lâu, mà trở về tiếp tục hoạt động ở Pháp.

Ảnh: Ông Đỗ Đình Thiện
những năm du học ở
Pháp (1927-1932)
 


         









Ngày 7-10-1931 ông Đỗ Đình Thiện bị cảnh sát Pháp bắt tại nhà ga Matabiau, Toulouse, khi mang theo truyền đơn để trao cho binh lính người Việt Nam trong quân đội Pháp trên đường hồi hương. Ông bị đưa ra xử trước tòa án ở Toulouse, bị kết án 4 tháng tù giam và trục xuất về nước.
Trong số những bạn học và đồng chí cùng hoạt động với ông Thiện ở Toulouse, mà sau này vẫn giữ quan hệ thân thiết, có các vị : Trần Văn Giầu, vợ chồng Trương Công Quyền, Nguyễn Văn Tạo, Phan Tư Nghĩa, Châu Lượng, Nguyễn Văn Dựt …

Ảnh: Giấy chứng thực của
GS. Trương Công Quyền
 

















GS. Trương Công Quyền viết:“Trong thời gian anh Thiện ngồi tù, tôi có vào thăm anh Thiện nhiều lần cùng các đồng chí đảng viên cộng sản Pháp, anh Thiện đã không chịu khai bất cứ một ai trong tổ chức của mình, mà nhận trách nhiệm hoàn toàn về mình. ”
          Trang đầu Hồ sơ 15SLOTFOM 79/2301 về Đỗ Đình Thiên, hiện lưu giữ tại Pháp, ghi :
          - Họ tên : Đỗ Đình Thiện.
          - Bí danh : Ngô Tôn Sang, Dejean Leclerc-Maxime.
          - Nơi thường trú : 7 Rue de Metz à Toulouse.
          - Từ Nga về 18-5-1927.
          - Trục xuất về Đông Dương ngày 3-2-1932 trên tầu thủy “Amboise”.
          Trong thư, ngày 5-10-2006, của GS. Trịnh Văn Thảo (Việt kiều ở Pháp) gửi GS. Đặng Phong, đã tóm tắt hồ sơ về Đỗ Đình Thiện, hiện lưu giữ tại Pháp, như sau:
          “Đảng CS Pháp đã biểu tình phản đối việc bắt bớ, đưa Đỗ Đình Thiện ra tòa và kết án ông ta.”
         
Ảnh: Trang đầu hồ sơ 15SLOTFOM 79/2301 về Đỗ Đình Thiện
hiện lưu giữ tại Pháp
 

















“Đảng CS Pháp cũng tìm trạng sư bào chữa cho ông và phát động cuộc quyên tiền vào quỹ đoàn kết trong khi ông bị ngồi tù.”
          “Vài tài liệu tóm tắt các buổi họp của Ủy ban Đông Dương (do mật vụ Pháp ghi lại) cho thấy vai trò khá tích cực của ông Đỗ Đình Thiện với cán bộ cộng sản vùng Tây Nam như Phan Tư Nghĩa, Nguyễn Văn Dựt … bên cạnh các trí thức yêu nước như Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm …”
          “Nói tóm lại, Hồ sơ 15 slotfom 79/2301 về Đỗ Đình Thiên tóm tắt một cách khá đầy đủ hành trình chính trị của một sinh viên, tuy du học nhưng đã sớm chọn dấn thân cách mạng, theo con đường mac-xit lenin-nit và lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc.”
          Tờ Trung lập Báo, xuất bản ở Việt Nam, ngày 4-1-1932 đã đăng bài sau đây:
Tin bên Pháp gởi về
Một người học sinh Việt nam bị 4 tháng tù
          Toulouse – Hôm 19/11 vừa rồi tòa án trừng trị ở Toulouse có đem xử một người Việt Nam tên là Đỗ Đình Thiện về tội tuyên truyền chủ nghĩa Vô chính phủ (Anarchisme) và xúi dục quân lính bất tuân thượng lịnh. M. Thiện bị cáo về tội rải truyền đơn ở các trại lính ngày 30/7, 10/9 và 1/10/1931.
          M. Đỗ Đình Thiện bị bắt tại gare Matabiau ngày 7/10. Hôm ấy M. Thiện được tin rằng mấy toán lính Đông Dương thuộc cơ 52 về đội pháo thủ thuộc địa đã mãn hạn, sắp xuống tàu về nước, nên Thiện định ra đón tận bến tàu: ra đến nơi chưa kịp trao truyền đơn thì đã bị bắt.
          Lúc đưa ra tòa, có hai viên thanh tra mật thám làm chứng, khai rằng có bắt được trong nhà M. Thiện hai cái máy đánh chữ, đã dùng vào việc sắp truyền đơn mà hai viên ấy đã bắt được và hiện còn giữ tại ty mật thám.
          Lúc thầy kiện bên nhà nước và trạng sư bên bị cãi xong thì tòa tuyên án M. Đỗ Đình Thiện 4 tháng tù.
          Số báo sau sẽ xin thuật rõ lời cãi của M. Thiện và lời biện hộ của thầy kiện về việc này; hôm nay vì bài nhiều quá. Xin độc giả lưu ý.”
          Chuyện kể rằng, luật sư Pê-rô, do đảng CS Pháp cử ra cãi cho ông Thiện, đáp tàu hỏa đến gặp thân chủ chỉ 30 phút trước khi diễn ra phiên tòa. Luật sư và bị cáo thỏa thuận với nhau sẽ lợi dụng diễn đàn của tòa để tuyên truyền cho chủ nghĩa yêu nước và lý tưởng cộng sản, dù cho có thể vì thế mà bị cáo sẽ bị kết án nặng hơn. Trên tòa, luật sư đã hùng biện, nói to tới mức làm rung cả cửa kính mặc dù lúc bấy giờ chưa có micro!


4. NGƯỜI BẠN ĐỜI TƯƠNG LAI
          Cô Trịnh Thị Điền, người bạn đời thủy chung tương lai của ông Đỗ Đình Thiện, sinh năm 1912 (Nhâm Tý) tại Hà Nội. Nguyên quán ở làng Tử Dương, huyện Thường Tín, Hà Tây. Thân phụ cô Điền là cụ Trịnh Hà, lang y, thân mẫu là cụ Ngô Thị Quảng, thương gia. Cô Điền có hai người anh cùng cha khác mẹ, con mẹ cả Nguyễn Thị Hưởng, là ông cả Đỉnh (Trịnh Kim Đỉnh) và ông thông Khánh (Trịnh Kim Khánh). Ông cả Đỉnh có 8 người con trong khi ông thông Khánh không có con. Cụ Quảng sinh hạ được 10 người con, trong đó cô Điền là thứ 10 và là người con duy nhất nuôi được (!). Chuyện kể rằng, hồi còn nhỏ, có lần cô bé Điền ốm nặng, tưởng không qua khỏi, cụ Trịnh Hà hết sức đau khổ, thất vọng, bế con trên tay mà than rằng: “Cha làm nghề thuốc mà không cứu nổi con!”. Sau khi sinh cô Điền, cụ Quảng, nghe theo lời bói toán, đã bỏ nhà ra đi biền biệt, buôn bán ở các tỉnh miền ngược, thỉnh thoảng mới về thăm con, vì sợ ở gần sẽ “sát con” (!). Thế rồi, khi cô Điền lên bốn, thì cả hai cụ Trịnh Hà và Ngô Thị Quảng đều lần lượt lâm bệnh ra đi cách nhau chưa đầy một tháng (!). Theo lời trăn trối của mẹ, cô Điền về sống với vợ chồng ông thông Khánh. Ông Khánh, lớn hơn em nhiều, rất thương yêu em hoàn cảnh côi cút.



                                    
                                            Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện – Sài Gòn 1936

          Cô Điền ngay từ khi còn nhỏ đã được chị dâu sai bảo, dạy dỗ trong công việc nội trợ. Vì còn bé, mà bếp lại cao, nên cô thường phải bắc ghế đứng lên để nấu cơm…Cô Điền được anh chị cho đi học, nhưng chỉ hết certificat[3] thì thôi để ở nhà giúp việc gia đình.
          Tháng 1-1929, sau khi đã hứa hôn với ông Thiện và ông Thiện đã du học Pháp được 2 năm, qua sự giới thiệu của người em họ là ông Ngô Đình Mẫn[4], cô thiếu nữ Hà thành Trịnh Thị Điền gia nhập Đảng Cộng sản Tân Việt, tham gia hoạt động trong chi bộ Phố Huế cùng các đồng chí Nguyễn Tạo, Nguyễn Tuấn Thức và Nguyễn Trọng Đàm.
          Năm 1930, sau khi 3 đảng cộng sản hợp nhất thành Đảng Cộng sản Đông Dương, theo gợi ý của đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, cô Điền đã thoát ly gia đình tham gia công tác cách mạng ở Hải Phòng, Hồng Gai, Hà Nội.
          Tháng 2 năm 1931 cô Điền bị thực dân Pháp bắt ở Hải Phòng, bị tra tấn dã man ở Sở mật thám Hải Phòng và Hà Nội. Cô Điền đã dũng cảm chịu đựng, không cung khai, và đã tuyệt thực 7 ngày để phản đối việc tra tấn, ngược đãi đối với phụ nữ. Không khai thác được gì, không có đủ bằng chứng, tháng 11-1931 thực dân Pháp đã phải trả tự do cho cô. Chính trong thời gian bị giam giữ này, cô Điền đã quen biết các nhà cách mạng như Nguyễn Lương Bằng, Lê Duẩn, v.v… Trước lúc cô Điền được thả, một đồng chí công nhân cùng bị tù đã nhắn nhủ:
          “Rồi đây Mười[5] cũng sẽ được về,
          Gia đình quản thúc, nghĩ mà ghê!
          Tinh thần vô sản Mười nên nhớ,
          Đừng vì phú quý mà quên đi!”



Ảnh: Cô Trịnh Thị Điền
 thời kỳ bị bắt giam và tra tấn tại Sở mật thám Hà Nội (tháng 2 đến tháng 10 – 1931), mang số tù 168834.
Ảnh sao từ hồ sơ lưu của Sở mật thám Hà Nội.
 
         

        









  Sau khi ra tù, cô Điền đã nhiều lần tiếp tế cho các đồng chí còn bi giam. Nói riêng, cô đã gửi 2 lưỡi cưa sắt vào khu biệt giam ở nhà thương Phủ Doãn để các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Tạo… tổ chức cuộc vượt ngục trong đêm Noël 1931.

5. LÀM KINH TẾ VÀ BÍ MẬT ỦNG HỘ CÁCH MẠNG (1932-1945)

Làm kinh tế
Năm 1932, sau khi ông Đỗ Đình Thiện bị trục xuất từ Pháp về, và cô Trịnh Thị Điền ở tù ra, thủy chung với lời hẹn ước năm xưa, họ làm đám cưới, cố tình không đăng ký kết hôn để tỏ thái độ bất hợp tác với chính quyền đương thời.
          Bị quản thúc chặt chẽ, không trực tiếp hoạt động cách mạng được, ông bà Đỗ Đình Thiện chuyển sang làm kinh tế, trước tiên là để nuôi sống gia đình, sau đó là để ủng hộ cách mạng khi có thời cơ. Thực tế hoạt động đã cho họ hiểu rằng, để làm cách mạng cũng cần phải có tiền: Có đồng chí, trong hoàn cảnh đặc biệt, chỉ vì eo hẹp về tài chính mà rơi vào tay giặc, thậm chí bị tù đầy nhiều năm. Sau những năm đầu đầy khó khăn và không ít lần thất bại, bằng chữ tín, trí thông minh và lòng qủa cảm, họ đã thành công. Đến đầu những năm 40, ông bà Đỗ Đình Thiện đã trở nên giầu có nổi tiếng Hà Thành với tiệm buôn tơ Cát Lợi ở 54 Hàng Gai, Hà Nội, nhà máy dệt ở Gia Lâm, đồn điền cà phê Chi-nê, Hòa Bình…


                                    Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện, Sài Gòn - 1936
         
Đồn điền Chi-nê do hai chú cháu điền chủ người Pháp H. Borel khởi tạo và khai khẩn trong 40 năm. Đồn điền có chiều dài khoảng 13km và chiều rộng khoảng 9km. Sau khi tham khảo ý kiến và được sự khuyến khích của ông Nguyễn Lương Bằng, năm 1943 ông bà Đỗ Đình Thiện đã mua đồn điền này với giá một triệu đồng Đông Dương (tương đương 2000 lượng vàng). Sản phẩm chính của đồn điền là cà-phê. Đồn điền có 2000 mẫu ruộng, và cũng chăn nuôi nhiều gia súc, chủ yếu để lấy phân bón cà-phê (năm 1943, đồn điền có khoảng 4000 trâu, bò, cừu, dê).



Ảnh: Đồn điền Chi-nê, xã Cổ Nghĩa, huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình
Ảnh chụp từ trên máy baynăm 1940


Thời kỳ Mặt trận bình dân
          Trong thời kỳ Mặt trận bình dân (1936-1939), ông bà Đỗ Đình Thiện tham gia hoạt động cho báo “Le Travail” (Lao động), vận động bầu người của Đảng vào Viện Dân biểu, ủng hộ tiền cho phong trào. Ông Trịnh Văn Phú, nguyên Chủ nhiệm báo Le Travail, nguyên đại biểu Viện Dân biểu Bắc kỳ (do Đảng đưa ra tranh cử), nguyên Trưởng ban Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chứng nhận:
          “Ông Đỗ Đình Thiện, nhà ở phố Nguyễn Du số 76 Hà Nội, nay đã mất, trước có hoạt động cách mạng ở Pháp.
          Sau về nước, trong những năm 1936-1939, có tham gia phong trào mặt trận nhân dân, lúc bấy giờ tích cực ủng hộ và cổ động cho báo trí cách mạng, bầu cho đại biểu đoàn thể vào trong các viện dân biểu và hội đồng thành phố. Tham gia các hoạt động của các hội quần chúng bấy giờ.”
          “Đồng chí Trịnh Thị Điền, nguyên cán bộ Ngân hàng Nhà nước, hiện về hưu trí ở số nhà 76 phố Nguyễn Du, trước đây trong hồi Mặt trận Bình dân 1936-1939, có tham gia công tác Mặt trận, tích cực vận động nhân dân trong cuộc bầu cử dân biểu và tận tình giúp đỡ tài chính ủng hộ tờ báo nói trên do tôi phụ trách”.

                      
Ảnh: Một nhóm cộng tác viên của báo “Le Travail”, trong đó có: Đỗ Đình Thiện (thứ hai bên trái), Vũ Đình Huỳnh, Trịnh Văn Phú, Nguyễn Thế Truyền, Trần Đình Long, Phan Tư Nghĩa …
Khi thoái trào Mặt trận Bình dân, nhiều bạn bè đồng chí của ông bà Thiện bị bắt trở lại. Ông Thiện đã chuẩn bị sẵn một chiếc ba lô trong có 2 bộ quần áo để có thể “đi căng”[6] bất cứ lúc nào! May mắn là điều đó đã không xảy ra.
Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện (áo dài đen) với các bạn tại Sở thú Sài Gòn1936
 
  
                                                            













Năm 1943
Năm 1943, ông Nguyễn Lương Bằng vượt ngục Sơn La, bắt liên lạc qua ông Vũ Đình Huỳnh, rồi giả làm một người buôn tơ  đến nhà riêng ông bà Đỗ Đình Thiện ở 54 Hàng Gai, Hà Nội. Ông Nguyễn Lương Bằng cho biết Đảng đang rất khó khăn về tài chính. Ông bà Đỗ Đình Thiện đã trao trực tiếp cho ông Nguyễn Lương Bằng số tiền ba vạn đồng Đông Dương. Sau này, năm 1972, trong một lần tiếp bà Thiện tại nhà riêng, đồng chí Trường Chinh, khi nhắc lại sự việc này, đã nói: “Khi nhận được số tiền 3 van đồng anh chị gửi cho qua anh Nguyễn Lương Bằng, quỹ Đảng chỉ còn 24 đồng.”
Biên niên sử Hoạt động tài chính của Đảng Cộng sản Việt Nam[7] ghi nhận:
“Quỹ của Trung ương Đảng lúc bàn giao cho đồng chí Nguyễn Lương Bằng chỉ còn 24 đồng Đông Dương.”
          “Vợ chồng đồng chí Đỗ Đình Thiện buôn bán tơ lụa ở phố Hàng Gai, qua đồng chí Nguyễn Lương Bằng, ủng hộ 30 000 đồng Đông Dương.”

Ảnh: Bìa sách “Biên niên sử Hoạt động tài chính của Đảng cộng sản Việt Nam”
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia -  2000
 
                       

         







 





Cùng năm ấy, ông Nguyễn Tạo vượt ngục Ban Mê Thuột. Ông bà Đỗ Đình Thiện đã trao cho ông Nguyễn Tạo hai vạn đồng Đông Dương.

 
Ảnh: Giấy chứng nhận của ông Nguyễn Tạo, Phó chủ nhiệm Ủy ban Nông nghiệp Trung                       ương
 
                                                                      
















Ông Nguyễn Tạo ghi nhận:
          “Năm 1943 tôi vượt ngục Ban Mê Thuột ra tới Hà Nội; đồng chí Trịnh Thị Điền lại liên lạc cho tôi hai vạn đồng Đông Dương để tổ chức hoạt động cách mạng.”
          Đầu năm 1945, khoảng tháng 1-2, khi nhận được thư của ông Nguyễn Lương Bằng cho biết Đảng đang rất cần tiền, bà Thiện đã viết giấy nhờ ông Vũ Đình Huỳnh đến một hãng buôn chủ là người Hoa, bạn hàng của bà Thiện, lấy 100.000 đồng Đông Dương để chuyển cho ông Nguyễn Lương Bằng[8]


6. NHỮNG NĂM ĐẦU CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG (1945-1947)

Nghị định số 1
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 3 hiện còn giữ được nguyên bản Nghị định số 1, ngày 1-9-1945, của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cử ông Đỗ Đình Thiện làm ngân phiếu (số 26577 ngày 3-9-1945) rút ở Ngân hàng Đông Dương số tiền 2.500.000 đồng Đông Dương để “chi về việc khẩn cấp”. Không biết đích xác số tiền này đã được chi vào những việc gì. Chỉ biết rằng lúc đó Ngân hàng Đông Dương tìm mọi cách cản trở Chính phủ ta rút tiền. Do đó đã phải cử ông Đỗ Đình Thiện đứng danh nghĩa cá nhân làm việc này.


Ảnh: Nghị định số 1, ngày 1-9-1945, của Chính phủ lâm thời
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

 
   
















Qũy Độc lập và Tuần lễ Vàng
          Chỉ hai ngày sau Lễ Độc lập, Chủ tịch Chính phủ lâm thời ban hành Quốc lệnh số 4, ngày 4-9-1945, lập Quỹ Độc lập và cử ông Đỗ Đình Thiện làm phụ trách tại Quỹ Trung ương ở Hà Nội. Tuần lễ Vàng cũng được tổ chức trong khuôn khổ của Quỹ Độc lập.

                   
           Ảnh: Quốc lệnh số 4, ngày 4-9-1945, của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
              về việc lập Quỹ Độc lập. Bản gốc lưu tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 3.












Sách “60 năm Tài chính Việt Nam 1945-2005”[9] viết:
          “Theo báo cáo tổng hợp của Bộ Tài chính ngày 20/5/1948 thì Quỹ Độc lập đã thu được trên 20 triệu đồng Đông Dương, Tuần lễ Vàng đã động viên được khoảng 370 kg vàng, tương đương số thuế thu được trong một năm dưới chế độ cũ ở nước ta.”

Ảnh: Bìa sách “60 năm Tài chính Việt Nam 1945-2005”
Nhà xuất bản Tài chính -2005
 
         
















Ông bà Thiện đã tích cực vận động nhân dân, đặc biệt là giới công thương, đóng góp cho Quỹ Độc lập và Tuần lễ Vàng. Bản thân ông bà Đỗ Đình Thiện đã gương mẫu đóng góp 100.000 đồng Đông Dương vào Quỹ Độc lập, và 100 lượng vàng trong Tuần lễ Vàng.
          Trong dịp Tuần lễ Vàng, một tờ báo đã đăng mẩu tin sau đây, được vợ chồng GS. Trương Công Quyền chép lại, tặng cho gia đình Đỗ Đình Thiện. Có ý kiến cho rằng mẩu tin này do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh viết.
          “7-10-1931 một sinh viên tòng học năm thư 3 Đại học Khoa học ở Toulouse bị bắt ở ga Matabiau vì tặng bánh mỳ có truyền đơn nhét vào trong ruột cho binh lính Việt Nam mãn hạn lên tầu về nước. Truyền đơn này xúi dục binh lính một khi trở về nước thì bất tuân thượng lệnh và hưởng ứng phong trào cách mạng. 19-11 năm đó, sinh viên ấy bị tòa án Toulouse phạt 4 tháng tù, sau khi nhận hoàn toàn trách nhiệm về việc mình làm, nhưng không chịu khai ai là đồng phạm. Sinh viên ấy, một đảng viên cộng sản, tên là Đỗ Đình Thiên, người mà ai nấy đều biết tiếng về Tuần lễ Vàng vừa rồi.”


Mua đấu giá tranh chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh
          Hồi đó, nhằm biểu thị lòng tin tưởng của nhân dân đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh, chống lại những âm mưu xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch, đồng thời tăng ngân sách cho chính quyền cách mạng, một cuộc bán đấu giá bức chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được tổ chức vào ngày bế mạc Tuần lễ Vàng 23-9-1945. Ông Đỗ Đình Thiện là người trả giá cao nhất (cao tuyệt đối), và đã mua bức tranh này với giá một triệu đồng Đông Dương. Ngay sau khi mua, ông Thiện tuyên bố tặng bức chân dung này cho UBHC thành phố Hà Nội. Thế là cuộc đấu giá biến thành một đám rước chân dung Hồ Chủ tịch về treo ở trụ sở UBHC thành phố Hà Nội. Sự kiện này đã gây tiếng vang lớn thời bấy giờ.

Ảnh minh họa: Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ký họa của Trần Đình Thọ, in trên các báo Chiến sỹ, Quốc hội, …
trong những năm 1945-1946
 
         

        














  Một tuần trước khi cuộc đấu giá diễn ra, tờ Dân chủ[10], ngày 18-9-1945, đã đăng bài:
          “Ai sẽ mua được?
          Bức chân dung của cụ Hồ Chủ tịch sẽ đem bán đấu giá  trong ngày bế mạc Tuần lễ Vàng (23-9-45).
          Bức chân dung duy nhất của bậc ái quốc lão thành sẽ về tay ai? Nhà triệu phú cứu quốc nào sẽ có hân hạnh được mang bức chân dung kính mến đó về?
          Hiện nay trong một bữa tiệc, một nhà hào phú ái quốc ở Hà-Thành đã tuyên bố trước mặt ông Bộ trưởng bộ Tài chính sẽ nhất định mua với giá một triệu đồng (1.000.000 đ).
          Các nhà triệu phú Bắc Liêu nghĩ sao?
          Các nhà triệu phú ẩn danh khác ở toàn quốc nghĩ sao?”

Ảnh: Bài phỏng vấn ông Đỗ Đình Thiện trên báo Quốc hội, số 3 ngày 19-12-1945
 
         











tờ Quốc hội[11], ngày 19-12-1945, đã có bài phỏng vấn ông Đỗ Đình Thiện với lời đề tựa:
          “Một buổi tối chúng tôi lại tìm ông Đỗ Đình Thiện tại nhà riêng. Trước khi vào thẳng vấn đề, chúng tôi có hỏi qua tiểu sử ông. Ông khiêm tốn trả lời: “Lúc đi học làm cách mạng, ra đời kinh doanh kỹ nghệ và nông nghiệp, tham gia vào công cuộc xã hội”. Nhưng ai người đã quên ngay được nhà triệu phú trẻ tuổi đã từng tham gia vào phong trào vận động dân tộc giải phóng và gần đây đã có lần bỏ tiền triệu mua bức ảnh Hồ Chủ tịch để giúp Quỹ Độc lập hiện nay vẫn do ông đảm nhiệm.”
          Trong dịp bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên, tờ Cứu quốc[12], ngày 5-1-1946, đưa tin:
          “Gần đây chúng ta phần nhiều biết tên tuổi ông Đỗ Đình Thiện vì: ông là nhà triệu phú đã quyên vàng vào Tuần lễ Vàng. Ông đã giúp Chính phủ và mua bức chân dung của vị Chủ tịch với số bạc triệu.”
          GS. Trần Văn Giầu nhớ lại[13]:
          “Ông Thiện là đại tư sản Hà Nội, bạn học cũ của tôi tại Pháp. Ngày ấy, để ủng hộ cách mạng, giúp đất nước, ông Thiện đã bỏ ra một triệu đồng tiền Đông Dương để mua tấm chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh.”
          Chuyện kể rằng, tổ chức gợi ý đưa ông Thiện ra ứng cử tại Nam Định để tham gia vào Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tháng 1-1946). Ông Thiện đã từ chối, nói rằng ông không có nguyện vọng vào Quốc hội, nhưng ông sẽ tự ra ứng cử tại Hà Nội để cổ vũ phong trào. Kết quả ông là người có số phiếu bầu khá cao sau 6 người trúng cử tại Hà Nội. Không ra ứng cử tại Nam Định, nhưng ông Thiện đã nhận trách nhiệm hộ tống cụ Nguyễn Văn Tố đi tranh cử thắng lợi ở Nam Định.


“Nhà khách Chính phủ”
          Nếu như trước cách mạng tháng 8, nhà riêng ông bà Đỗ Đình Thiện, tại 54 Hàng Gai, Hà Nôi, đã từng là cơ sở cưu mang cán bộ cách mạng, thì trong những năm 1945-46 nơi đây đã trở thành “Nhà khách Chính phủ”. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng và Chính phủ, như các ông Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Bùi Lâm, Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Phạm Văn bạch, Trần Văn Giàu, Phạm Ngọc Thạch …, đã thường xuyên qua lại, làm việc, tiếp khách, nghỉ ngơi, may quần áo... Nhiều cán bộ từ miền Nam ra, trong đó có Phái đoàn Nam bộ, và Phái đoàn Phụ nữ Nam bộ đã được đón tiếp rất chu đáo tại đây. Bác Hồ cùng ông Võ Nguyên Giáp cũng đã từng nghỉ đêm tại ngôi nhà này, vì lúc đó Bác phải thay đổi chỗ ở thường xuyên để đảm bảo bí mật. Bà Thiện đã làm cơm để Bác Hồ tiếp cụ Huỳnh Thúc Kháng tại nhà 54 Hàng Gai. Bà Thiện cũng được giao nhiệm vụ làm tiệc để Bác Hồ tiếp Cựu hoàng Vĩnh Thụy và Hoàng thân Xuphanuvông (Lào) tại phòng khách tầng hai tòa nhà Bắc bộ phủ, và tiếp các vị tướng tầu Tưởng là Tiêu Văn và Lư Hán tại 58 Nguyễn Du…

Hội đồng quản trị Đại học
          Những năm đầu của chính quyền cách mạng, ông bà Thiện tham gia vào nhiều hoạt động xã hội. Bà Thiện tham gia công tác vận động công thương, phụ nữ và đã được bầu là ủy viên BCH Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam từ 1946 đến 1955. Ông Thiện, ngoài công việc của Quỹ Độc lập, còn tham gia nhiều việc khác: Chủ tịch ủy ban hành chính khu Hoàn Kiếm, ủy viên Hội Cứu đói Trung ương, Giám đốc Ngũ cốc công ty, Phó giám đốc Công thương ngân hàng …
          Ông Nguyễn Hữu Đang[14] kể lại rằng, ông Thiện đã tài trợ tiền cho việc tổ chức một lớp đào tạo hàng trăm cán bộ thanh niên trong thời gian 3 tháng do ông Đang phụ trách. Ông Thiện cũng chính là người tài trợ một vạn đồng Đông Dương cho giải thưởng Mỹ thuật đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Giáo dục Đại học được Chính phủ quan tâm từ rất sớm. Ông Thiện là một thành viên của Hội đồng quản trị đại học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:  
“Theo nghị định của Bộ trưởng bộ Quốc-gia Giáo-dục ngày 31-12-1945:
Cử những vị sau này vào Hội đồng quản-trị Đại-hoc:
Các ông:
- Vĩnh Thụy, cố-vấn Chính phủ,
- Trần Văn Cẩn, giáo-sư ban Mỹ-thuật trường Đại-học,
- Phạm Văn Đồng, giáo sư lớp Chính-trị Xã-hội trường Đại-học,
- Hoàng Xuân Hãn, giáo sư ban Khoa-học trường Đại-học,
- Phạm Khắc Quảng, giáo-sư ban Y-khoa trường Đại-học,
- Phạm Ngọc Thạch, bác-sĩ ở Nam-bộ,
- Đỗ Đình Thiện, thương-gia ở Bắc-bộ,
- Hồ Hữu Tường, giáo-sư ban Văn-khoa trường Đại-học.”[1]


[1] Việt-Nam Dân-quốc Công-báo ngày 19-1-1946

  Ảnh: Việt Nam Dân quốc Công báo ngày 19-1-1946, trang 2




7. THÁP TÙNG HỒ CHỦ TỊCH ĐI PHÁP NĂM 1946
          Ngày 24-3-1946, trong buổi gặp gỡ tại vịnh Hạ Long, Thượng sứ D’Argenlieu chuyển lời mời Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Cộng hòa Pháp vào hạ tuần tháng 5-1946.
          Một hôm, ông Nguyễn Lương Bằng đến 54 Hàng Gai, Hà Nội, thông báo cho ông Đỗ Đình Thiện:
- Bác muốn anh tháp tùng Bác đi Pháp. – ông Bằng nói.
- Tôi có thể không đi được không? – ông Thiện hỏi lại.
- Nếu anh tìm được người đủ tin cậy thay anh đi với Bác thì anh có thể ở lại. – ông Bằng trả lời. Và thế là ông Thiện đã nhận nhiệm vụ này.
          Tháp tùng Bác từ Hà Nội trong chuyến đi này có: ông Đỗ Đình Thiện, thư ký (Văn phòng Chủ tịch), và ông Vũ Đình Huỳnh, sĩ quan cận vệ (Võ phòng Chủ tịch). Tới Pháp, Văn phòng của Chủ tịch được bổ sung thêm bác sỹ Lê Văn Cưu (Việt kiều Pháp) và Võ phòng được bổ sung thêm ông Phạm Ngọc Xuân (Việt kiều, đại úy hải quân trong quân đội Pháp). Ngoài ra còn một số việt kiều, trong đó có Phạm Huy Thông, Mai Thứ, Nguyễn Viết Ty, Phương Tiếp … trợ giúp công việc của đoàn.
Mặc dù Hồ Chủ tịch được mời với tư cách thượng khách của Chính phủ Pháp, chuyến đi ngoại giao này rõ ràng đầy bất trắc, hiểm nguy, “lành ít, dữ nhiều”.


Tới Pháp, Hồ Chủ tịch lưu lại Biarritz 10 ngày để chờ người Pháp lập chính phủ mới. Trong thời gian này Người đã tranh thủ tiếp xúc với nhiều tổ chức, cá nhân người Pháp cũng như người Việt sống tại Pháp, đi thăm một số nơi trong vùng.



Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và các tùy tùng trên bờ biển Biarritz.
(Người đứng đối diện với Hồ Chủ tịch là ông Đỗ Đình Thiện)




Ngày 22-6-1946, từ Biarritz, Hồ Chủ tịch đáp máy bay tới sân bay Bourget, Paris, thực hiện chuyến thăm chính thức CH Pháp theo lời mời của Chính phủ Pháp. Hồ Chủ tịch được đón tiếp trọng thể theo đúng nghi thức dành cho nguyên thủ quốc gia.     Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại Marius Moutet, đại diện Chính phủ Pháp, ra tận chân cầu thang máy bay đón và hướng dẫn Hồ Chủ tịch trong các nghi thức ngoại giao.



Ảnh: Bước xuống khỏi máy bay, sau khi chào quốc ca hai nước và duyệt binh danh dự, Chủ tịch Hồ Chí Minh có lời tuyên bố vắn tắt tại sân bay trước các quan chức, sỹ quan Pháp, Việt ra đón Người, cùng phóng viên nhiều hãng thông tấn, báo chí chờ sẵn ở đó. Trong ảnh có thể nhìn thấy M. Moutet (bên trái Hồ Chủ tịch), Phạm Văn Đồng (đứng sau Hồ Chủ tịch), Đỗ Đình Thiện và Lê Văn Cưu (giữa ảnh), Vũ Đình Huỳnh (đội ca lô mầu sáng).



          Lễ đón tiếp chính thức Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn ra từ ngày 2 đến ngày 4-7-1946 tại Paris theo nghi thức ngoại giao. Ông Đỗ Đình Thiện cùng các thành viên khác trong đoàn tùy tùng (Vũ Đình Huỳnh, Lê Văn Cưu, Phạm Ngọc Xuân) đã tháp tùng Chủ tịch Hồ chí Minh trong các nghi thức trọng thể này.                                                                                                    



Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh duyệt binh danh dự trong sân Dinh Thủ tướng (14 Saint Dominique) trước khi vào dự tiệc do Thủ tướng Chính phủ lâm thời CH Pháp G. Bidault chiêu đãi Người ngày 2-7-1946. Bên trái Hồ Chủ tịch là: M. Moutet, Trần Ngọc Xuân, J. Dumaire, J. Sainteny và Đỗ Đình Thiện.
        



       

Ảnh:  Thủ tướng G. Bidault và Hồ Chủ tịch chụp ảnh kỷ niệm tại cửa dinh Thủ tướng (14 phố Saint Dominique) sau bữa tiệc Thủ tướng chiêu đãi Hồ Chủ tịch ngày 2-7-1946. Từ trái sang: Phạm Ngọc Xuân, G. Bidault, J. Sainteny, Hồ Chủ tịch, Đỗ Đình Thiện.



           
Ảnh: Thiếp mời dự tiệc do Thủ tướng Chính phủ lâm thời CH Pháp G. Bidault chiêu đãi Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Dinh Thủ tướng (14 Saint Dominique), vào hồi 13 giờ 15 ngày 2-7-1946



                 
Ảnh: Vị trí chỗ ngồi của ông Đỗ Đình Thiện tại bàn tiệc do Thủ tướng Chính phủ lâm thời CH Pháp G. Bidault chiêu đãi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 2-7-1946


      
Ảnh: Ngày 3-7-46, Hồ Chủ tịch đặt vòng hoa ở Đài Chiến sỹ vô danh dưới Khải hoàn môn, Paris. Người mặc binh phục đứng phía sau bên trái Hồ Chủ tịch là tướng Gentilhomme. Người đứng phía sau bên phải Hồ Chủ tịch là ông Đỗ Đình Thiện.


              
               
Ảnh: Thiếp mời dự tiệc Chủ tịch Hồ Chí Minh chiêu đãi Thủ tướng Chính phủ lâm thời CH Pháp tại khách sạn Royal Monceau (35, Avenue Hoche), vào hồi 20 giờ 15 ngày 4-7-1946.


                   
Ảnh: Thiếp mời dự lễ đón tiếp và tiệc trà do Chủ tịch và các thành viên Hội đồng thành phố Paris chiêu đãi Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào hồi 16 giờ 45 ngày 4-7-1946.


Ảnh: Ngày 4-7-1946 Chủ tich Hồ Chí Minh cùng các tùy tùng (Đỗ Đình Thiện, Lê Văn Cưu, Vũ Đình Huỳnh) tới đặt vòng hoa tại Đài Trận vong chiến tranh 1939-45.

Lịch trình làm việc của Hồ Chủ tịch bốn tháng ở Pháp (22/6 – 17/9/1946) đã được ông Đỗ Đình Thiện ghi chép trong một cuốn Nhật ký[16] mà bản gốc hiện lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.

    
Ảnh:  Trang đầu “Nhật ký làm việc của Hồ Chủ tịch bốn tháng ở Pháp (22-6-1946 đến 17-9-1946)”    do ông Đỗ Đình Thiện ghi. Bản gốc hiện lưu tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam
         
Cuốn Nhật ký cho thấy, cùng với việc thực hiện các nghi lễ ngoại giao, Hồ Chủ tịch đã có rất nhiều cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với các tổ chức, báo chí, đảng phái, cá nhân trong đó có những danh nhân thế giới như vợ chồng nhà bác học Joliot Curie, danh họa Picasso, đại văn hào Ilya Ehrenbourg …Thực ra thì nhiều người trong số họ đã từng là bạn của Bác ngay từ thời kỳ Bác hoạt động cách mạng ở Pháp. Rõ ràng, phải ở một tầm trí tuệ và văn hóa như thế nào thì mới có thể kết bạn và giữ được tình bạn với những con người như thế.
          Ngoài trách nhiệm thư ký, người ta thấy ông Thiện chính là người quan tâm, chăm lo sinh hoạt, sức khỏe của Hồ Chủ tịch. Tài liệu của Sở cảnh sát Paris đã không bỏ sót chi tiết nào về những lần ông Thiện đưa Bác đi bệnh viện khám mắt, kiểm tra sức khỏe, hoặc ông Thiện vào nhà băng Indochine rút tiền…

   Ảnh: Hồ Chủ tịch tiếp đại biểu Thanh niên Dân chủ Pháp trong vườn nhà ông bà R. Aubrac. Người ngồi  phía sau bên phải Hồ Chủ tịch là ông Đỗ Đình Thiện
                   
Giữa thủ đô Paris hoa lệ, trong khách sạn Royal Monceau sang trọng, bộn bề trăm công nghìn việc, Bác vẫn luôn giữ một nếp sinh hoạt ung dung, điều độ và giản dị. Ông Đỗ Đình Thiện đã từng cảm kích kể lại kỷ niệm sau đây:
          Sáng sáng, Bác dùng bột than củi mang từ nhà đi để đánh răng. Ông Thiện, nghĩ rằng Bác tiết kiệm, hơn nữa cũng lo không tiện về ngoại giao, đã lẳng lặng giấu hộp bột than của Bác đi, và để thay vào đó một tuýp thuốc đánh răng. Sáng dậy, Bác cứ loay hoay đi tìm, ông Thiện giả bộ nói: “Thưa Bác mất rồi thì thôi, mời Bác dùng thuốc đánh răng”. Bác nói: “Không phải mình hà tiện đâu, nhưng mình quen mất rồi, đánh bằng thuốc mình cứ hay bị lợm giọng!”. Thế là sáng hôm sau, vừa thương Bác vừa cảm động, ông Thiện đành lẳng lặng đặt trả lại Bác hộp bột than đánh răng.
Ông bà Thiện đã công phu gìn giữ, bảo quản trong suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp gần 100 bức ảnh về chuyến đi Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946. Hiện còn 86 bức mà bản gốc được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 3. Điều lý thú là phần lớn mặt sau các bức ảnh này đều có lời ghi chú của ông Đỗ Đình Thiện giải thích nội dung các sự kiện trong ảnh.
Cũng suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, ông bà Thiện đã cẩn trọng, gìn giữ, bảo quản lá cờ đỏ sao vàng, có tua kim tuyến mầu vàng, dùng cắm trên ôtô của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những nghi lễ chính thức  ở Pháp. Sau hòa bình lập lại, ông bà Thiện đã trao lá cờ này cho ông Phạm Xuân Thiều đưa về lưu giữ, và đã có thời gian trưng bày, tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam.
Cuộc hội đàm chính thức giữa phái đoàn Việt Nam, do ông Phạm Văn Đồng dẫn đầu, và phái đoàn Pháp đã không đạt được thỏa thuận nào. Phái đoàn Việt Nam về nước, Hồ Chủ tịch đã ở lại, cố gắng ký với M. Moutet, Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại, bản Tạm ước 14-9-1946 nhằm kéo dài những ngày hòa bình để có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến.
Những dòng sau đây trong Nhật ký[17] do ông Đỗ ĐìnhThiện ghi đã phản ảnh phần nào những hoạt động bận rộn, căng thẳng, khẩn trương của Hồ Chủ tịch trong những ngày cuối cùng ở Paris:

14-9-46
-17g Cụ đi gập ô. Moutet[18].
-18g Cụ đi gập ô. Bidauld[19].
-19g45 Cụ về khách sạn.
-12g rưỡi đêm Cụ đi gập ô. Moutet.”

15-9-46
- 16g ô. Mesmer tới đưa giấy Cụ Chủ tịch ký vào hồi gần 5 giờ, có a. Giám[20] ở đấy.
- 17g30 Cụ đi nói truyền thanh Pháp và Việt nghe.
- 19g20 ô.b. Sainteny[21] đến chào Cụ.”

16-9-46
Sáu ngày nay, Cụ bận suốt ngày đêm (tiếp khách đến thăm chào, đi thăm chào và thứ nhất đi công việc). Anh em trong Tùy tùng thu dọn tài liệu, đóng đồ đạc để gửi đi, đem về, viết thư, gửi thiếp chào và cáo từ các nhà chức trách, các người thân biết. Suốt ngày đêm, công việc, khách khứa tấp nập, rộn rịp.
Đêm 15, anh em thức đến 2g sáng và Cụ 3g sáng, mà sáng nay 5g đã dậy sửa soạn ra ga.
6g30, Cụ đi Hôtel Ste Anne để gập anh Mai[22], 7g30 Cụ về giục đi ngay kẻo trễ, bỏ cả ăn sáng.
Bẩy xe hơi đi ra ga Lyon. 7g50 tới ga…”
         
Ảnh: Việt kiều và các bạn Pháp lưu luyến tiễn Hồ Chủ tịch tại ga xe lửa Lyon - Paris, sáng 16-9-1946. Bên phải Hồ Chủ tịch là ông Đỗ Đình Thiện, bên trái Người là ông Vũ Đình Huỳnh. Ảnh đăng trên báo của Việt kiều tại Pháp.

Ảnh: Trên tầu hỏa từ ga Lyon đi quân cảng Toulon để về nước bằng tầu thủy. Ngồi:  Hồ Chủ tịch và J. Sainteny ; Đứng (từ trái sang): Đỗ Đình Thiện, Vũ Đình Huỳnh, Lê Văn Cưu,

Ngày 18-9-1946 Hồ Chủ tịch cùng đoàn tùy tùng dời quân cảng Toulon về nước, trên chiếc thông báo hạm Dumont d’Urville, có trang bị cả đại bác 155 ly, pháo liên thanh cùng với 150 sĩ quan, thủy thủ Pháp do một viên đại tá chỉ huy.
Trong Hồi ký “Trở về với Tổ quốc kính yêu”[23], GS. Trần Đại Nghĩa viết: “Đoàn tùy tùng theo Bác về nước gồm 6 người: anh Đỗ Đình Thiện, thư ký của Bác; anh Vũ Đình Huỳnh, đại tá cận vệ (hai người này đi theo Bác từ Hà Nội); anh Võ Quý Huân, kỹ sư cơ khí - luyện kim; anh Trần Hữu Tước, bác sĩ; anh Võ Đình Quỳnh, kỹ sư mỏ - luyện kim và tôi với tên cũ Phạm Quang Lễ.”
“Hội nghị Fontainebleau không thành công, ảnh hưởng đến mối quan hệ Việt-Pháp, nghe đâu tình hình trong nước lúc đó đang căng thẳng. Khi đặt chân xuống tầu, tôi lo ngại một điều mà không dám nói ra: cuộc hành trình dài ngày, nếu nửa đường xảy ra chiến tranh ở trong nước, thì cả đoàn chúng tôi sẽ rơi vào cảnh “chim lồng cá chậu”, giải quyết, đối phó ra sao? Nhất là với Bác, hình ảnh và linh hồn của cách mạng Việt Nam.”
“…Trong cuộc hành trình, Bác có yêu cầu tầu đỗ lại bốn nơi để Bác ghé: vùng gần kênh đào Suez, Ceylan, Nha Trang và ngoài khơi Hải Phòng. Tại mỗi điểm ghé, chỉ có Bác cùng thư ký và bảo vệ lên bờ, còn bốn chúng tôi ở lại trên tầu. Bác đến đâu, gặp ai, làm gì? – tôi không tò mò tìm hiểu, lúc đó mọi người đều nghiêm túc như vậy…”

             

Ảnh:  Trên tầu thủy Dumont d’Urville, ngày 18-9-1946, trước khi tầu khởi hành về nước.
Từ phải sang: Hồ Chủ tịch, Trần Hữu Tước, một người Pháp, J. Sainteny, Trần Đại Nghĩa,
Lê Văn Cưu, Missoffe và Đỗ Đình Thiện

Trên đường về, từ cảng Saïd, ngày 22-9-1946 Bác đã gửi thư cho ông bà R. Aubrac, chủ nhà nơi Bác cùng Tùy tùng đã ở từ 28-7 đến 8-9-1946. Trong thư Bác không quên nhắc đến những người đồng hành với mình, trong đó có “Thiện” và “Huỳnh”, mà Bác gọi là “mes camarades”, nghĩa là “các đồng chí của tôi”.

Ảnh: Thư Hồ Chủ tịch gửi
ông bà R. Aubrac từ cảng Said
ngày 22-9-1946
Ảnh chụp từ tư liệu gia đình Aubrac, 5-2007
 
          

“Các bạn thân mến,
Từ lúc chúng tôi khởi hành, biển lặng, thời tiết tốt. Hàng ngày, tôi ngắm mặt trời mọc và lặn. Đó là một cảnh tượng hoành tráng và tuyệt đẹp.
Trên tầu, chúng tôi không có nhiều việc để làm. Chúng tôi đọc, nói chuyện, nghỉ ngơi, và nhớ các bạn.
Những người bạn mới của chúng tôi, các sĩ quan và thủy thủ, họ rất dễ mến.
Các đồng chí của tôi (Thiện, Huỳnh, và 4 người nữa mà các bạn chưa quen) và tôi, chúng tôi mạnh khỏe.
Tôi gửi tới các bạn những tình cảm thân thiết nhất. Tôi ôm hôn thắm thiết Jean Pièrre, Catherine và cháu bé gái thân yêu của tôi. Hôn Ginette. Gửi lời chào tới các bạn tôi Billoux, D’Astier, và những người khác.
      Hồ Chí Minh”.




Tai nạn xe hơi
          Ngày 17-7-1946, trong khi tháp tùng Hồ Chủ tịch đi thăm Normandie, xe ô-tô ông Thiện ngồi, mà lẽ ra Hồ Chủ tịch đã ngồi, nếu như xe của Người không chữa kịp vào giờ chót, đã bị tai nạn rất nặng: mất lái, xoay ngang, đâm vào một đống đá ven đường, lật ngửa lên, và quay ngang 3 vòng! Rất may ông Thiện đã thoát chết. Ba người khác ngồi cùng xe với ông Thiện đều bị thương phải vào nằm viện, chỉ riêng ông Thiện là có thể tiếp tục đi với đoàn. Trong Nhật ký[24] ông Thiện đã miêu tả chi tiết tai nạn này:
          17-7-46
Cuộc đi thăm Normandie đã dự định trước một tuần lễ. Thăm miền Normandie là nơi quân đồng minh Anh và Mỹ đã đổ bộ vào Pháp để đánh Đức. Nhân tiện ông Sainteny có nhà trại ở đấy nên mời Hồ Chủ tịch. Cụ nhận nhời nên mới có cuộc đi thăm chơi ngày nay.
Theo đúng chương trình thì khởi hành tại khách sạn (Paris) từ 9g30, nhưng gần đến lúc đi, xe của Chủ tịch hư điện, cần sửa chữa, nên sự khởi hành chậm mất một giờ và bắt đầu 10g30 mới lên xe. Ô. Missoffe thay ô. Sainteny đến đón Chủ tịch, còn ô. Sainteny sẽ đón và gặp Chủ tịch ở ngoài tỉnh.
Cụ Chủ tịch đi có tùy tùng (M. Huỳnh, Xuân, Cưu - bác sỹ, Mai Thứ - nhà chiếu bóng, Thiện) và 2 em nhỏ Jacqueline và Régine. Đi một quãng, ra đến ngoài tỉnh thì có xe ô. Sainteny đã đợi sẵn ở đấy, trong xe có 2 vợ chồng ô.b. Hertrich.
Hồ Chủ tịch ngồi xe thứ 2 với ô. Sainteny, a. Xuân và 1 em nhỏ , xe đầu có lính tự vệ với A.A. Cưu và Thứ. Kế đến xe thứ 3 có Thiện và 2 vợ chồng ô. Hertrich. Trong xe thứ tư có A.A. Huỳnh, Misoffe và 1 em  nhỏ.
Bốn xe bon bon chạy trên đường nhưa rộng rãi và tốt.
Tới Evreux, cách Paris 100 cây số, hồi 11g40. Xe vẫn chạy trên đường thẳng, nhơm nhớp ướt vì trước khi đi trời mưa và lúc đi đường cũng thỉnh thoảng có hột mưa. Xe đi cái nọ cách cái kia trên dưới 100 thước nên thường trông thấy nhau. Khi đi quá Evreux lối chừng 15 cây số thì xe thứ 3, trên có 2 vợ chồng ô. Hertrich và  Thiện ngồi, tự nhiên láng sang tay trái (quãng đường chỗ ấy thật thẳng và tốc lực độ 8, 90 một giờ), rồi không hãm nổi và cũng không lấy lại được tay lái. Thế là xe không chạy theo đường mà đâm chạy ngang hẳn sang vệ đường tay trái, húc vào một đống đá, rồi nhào mũi xe xuống, lật ngửa lên, và lăn ngang 3 vòng rồi đứng dậy. Rõ ràng trông thấy tai nạn sắp xẩy đến mà thật bất lực, không làm gì được. Tôi ngồi bên trái, và về phía tay phải tôi là ô. Hertrich, rồi phía đến là b. Hertrich. Tôi còn thấy rõ ô. Hertrich, thấy nguy đến nơi, hai tay bám chặt lấy đệm xe, còn tôi, chớp nhoáng thấy mình đợi sự nguy hiểm sắp xẩy đến, nhưng cũng chớp nhoáng nghĩ như những lúc thường nói chuyện về tai nạn ô tô: “Tốt hơn, khi đi xe hòm rủi ro gập tai nạn, thì cứ ngồi nguyên trong xe chớ đừng thử mở cửa để nhẩy ra ngoài”. Thoáng nghĩ thật nhanh như thế, nên tôi cứ ngồi thản nhiên để đợi sự may rủi đến. Nhờ thế mà thấy được cả thái độ người ngồi bên, và mình vẫn được tỉnh táo. Rồi không biết trong mấy giây đồng hồ, xe va vào đâu, đổ xuống lật lên thế nào, trong xe lục đục xẩy ra thế nào, lúc ấy tôi mê không còn biết gì hết. Cho đến khi xe lăn lộn mấy vòng rồi lại lật đứng dậy thì lúc ấy tôi lại bừng tỉnh dậy, thản nhiên tay mở cửa xe lấy, bước xuống bãi cỏ, thấy có người nằm dưới gầm xe nói léo nhéo, rồi lại có người nằm trong xe mà mấy người đang lay gọi. Chỉ nhận ra trong những người đang lay gọi có A. Huỳnh và người đang còn ngất là bà Hertrich đi xe với mình, và một ông cùng đi xe với mình máu me đầy mặt. Không mê nhưng cũng chưa tỉnh hẳn, nên tôi cũng phảng phất, chưa nhận định là một tai nạn mới xẩy ra. Khi mọi người đã khiêng được bà bị ngất ra ngoài xe, thì người nằm dưới xe vẫn nói: “Tôi không ra được, xe đè lên chân tôi, lấy kích mà nâng xe lên!”. Mới đầu, tôi tưởng là một người nào đi đường bị xe đâm vào, rồi dần dần mới nhận ra người nằm dưới gầm xe ấy chính là a. tài xế lái xe. Thấy anh ấy bảo nâng xe lên, tôi cũng đứng sát lại xe để cùng nâng xe lên, quên hẳn là nâng xe bằng tay thì nâng sao được! trong khi ấy, bác sỹ Cưu băng bó cho bà bị nạn thế nào tôi cũng không nhìn thấy và không biết làm lúc nào. Cho tới khi có người dắt đỡ tôi đến một cái xe khác rồi bảo trèo lên ngồi bên xế, tôi cũng cứ việc bước lên ngồi xe, chẳng hiểu ra sao và để làm gì. Xe chạy được một quãng tôi lại tỉnh hơn nữa hỏi tài xế: - Chúng ta đi đâu? – Đi nhà thương – À đi nhà thương. Nghe nói nhà thương, tôi ngoảnh lại sau xem thì thấy 2 vợ chồng ô. Hertrich , vợ băng bó, chồng cũng băng bó, và lại cả máu mê đầy mặt. Bụng nghĩ thầm đi nhà thương, sao đi nhà thương mà không có ai đi theo, trừ tài xế lái xe, nhỡ có ai nhẩy ra ngoài xe thì làm thế nào ? Có ý chê trách không có ai đi theo. Đến nhà thương người ta bảo tôi và ô. Hertrich ngồi thì ngồi, một tý thấy người ta khiêng cáng bà Hertrich vào. Tôi vẫn chưa hiểu có việc gì không! Người ta hỏi tôi có việc gì không, tôi bảo là không việc gì, - Có đau đâu không ? – Không. À, tôi có sước tay, sưng môi, chảy máu chân. Người ta bảo chỉ có thế thì không sao. Người ta đưa ô. Hertrich lên bàn, tôi cũng đi theo. Người ta cắt tóc cho ô. Hertrich và bôi thuốc và băng bó cho ô. ấy, ở mang tai bị vết rạch bằng ngón tay, và làm những gì nữa, tôi không nhớ rõ. Còn tôi, người ta hỏi có việc gì không, tôi bảo không việc gì nhưng cũng dơ tay bị sước, môi bị sưng và chân bị chẩy máu để họ bôi thuốc cho. Tôi lại còn thấy tay với mặt sao bẩn lắm, bảo cho tôi đi rửa mặt và rửa tay. Rửa xong ra, lại thấy tài xế cũng đang nằm trên bàn để người ta xem và băng bó cho. Một lát lại thấy tỉnh hơn nữa, đã biết rõ là đã xẩy ra tai nạn, đã biết lo thì câu hỏi đầu tiên còn dớ dẩn: - Này, Chủ tịch không việc gì cả đấy chứ, Chủ tịch không ngồi xe này phải không ? Thế rồi một lát thì Cụ Chủ tịch đã đến thăm chúng tôi và thấy tôi không việc gì, còn 2 vợ chồng ô. Hertrich và tài xế nằm lại nhà thương, vì bà Hertrich gẫy xương bả vai. Chủ tịch vào buồng bà nằm, an ủi và chào bà nằm trị bệnh, cả ô. ấy và cả tài xế. Chủ tịch lên xe, tôi cũng lại lên một xe khác đi đến chỗ xẩy tai nạn mà những xe khác và đoàn vẫn đợi đấy.
Lần này đến nơi, trông thấy xe bẹp, nát, kính vỡ tan tành, cửa bị long bẫy, mũi xe bị bẹp, máy hư, tay lái không bén nữa, mới biết tai nạn vừa xẩy ra rất nặng, có thể chết hết cả bốn người ngồi xe. Cứ theo người ngồi xe trước trông lại và xe đi sau chứng kiến tai nạn ấy thì cũng cho là chết cả rồi, không hy vọng gì nữa. Thế mà chỉ có bà Hertrich bị gẫy xương, còn 3 chúng tôi bị thương nhẹ cả thì thật may mắn không biết đến đâu mà kể.

Ảnh: Ăn trưa tại Normandy Hotel, Deauville (thuộc tỉnh Caen) ngày 17-7-1946, sau khi ông Đỗ Đình Thiện bị tai nạn ôtô ở Evreux.  Vòng quanh bàn (theo chiều kim đồng hồ): Hồ Chủ tịch, Jacqueline, Vũ Đình Huỳnh, Lê Văn Cưu, Đỗ Đình Thiện, Missoffe và J. Sainteny.

Ảnh: Thực đơn bữa ăn trưa
ngày 17-7-1946 tại Normandy  Hotel, Deauville, sau khi ông Đỗ Đình Thiện bị tai nạn ôtô ở Evreux.
 

Đoàn xe lại sắp sửa bắt đầu đi thì còn thiếu 2 anh Cưu và Thứ (trở lại nhà thương Evreux để thăm bệnh nhân). Một mặt tôi đi xe trở lại Evreux để đón 2 anh ấy, một mặt, xe Chủ tịch và tùy tùng cứ việc đi trước. Đến Evreux, đón được 2 a. Cưu và Thứ rồi, chúng tôi đuổi theo 2 xe đầu. Lúc này đã 2g30 chiều, khởi hành từ Evreux, đi qua Lisieux (cách Evreux 72 cây số), một nơi cũng bị tàn phá, rồi đến Deauville (cách Lisieux 28 c.s.). Đi luôn không dừng 2 nơi này cho chóng kịp đoàn xe Chủ tịch.
Khi đến cửa khách sạn Normandy thì đã thấy đoàn xe đỗ đấy. Chúng tôi xuống xe, vào khách sạn thì đã thấy Chủ tịch cùng tùy tùng ngồi bàn ăn. Chúng tôi rửa tay, chải đầu, rồi cũng ngồi vào bàn ăn dùng cơm trưa. Lúc ấy đã là 4 giờ chiều mới ăn cơm sáng, mà trong chương trình tính trước thì phải tới đây vào quãng 12g45 nếu không có việc hỏng xe trước khi ra đi và xẩy tai nạn dọc đường…”.
Một số tờ báo Pháp lúc ấy đã nêu câu hỏi: “Phải chăng đây là một vụ mưu sát hụt Chủ tịch Hồ Chí Minh?”. Nhưng rồi mọi việc cũng phải cho qua để tập trung cho những công việc hệ trọng, cấp bách hơn lúc bấy giờ.
          Khi tầu cập cảng Hải Phòng, Bác về Hà Nội trước, ông Thiện phải ở lại tiếp đoàn thủy thủ Pháp. Về đến Hà Nội, Bác cho gọi ngay bà Thiện đến gặp và nói vui: “Bác đưa chú Thiện về trả cô nguyên vẹn rồi đấy nhé!”.

8. THÁNG 12-1946
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ đêm 19-12-1946. Ông bà Thiện đã tình nguyện ở lại tham gia chiến đấu bảo vệ Thủ Đô sau khi đã gửi cả bốn người con còn nhỏ (lớn nhất 13 tuổi, bé nhất 5 tuổi) sơ tán về nhà một người bạn (ông bà Quách Văn Thinh) ở Vân Đình. Lúc ấy ông Thiện là Phó chủ tịch và bà Thiện là ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Khu Hoàn Kiếm, Hà Nội. Bà Thiện kể lại: Chiều ngày 19-12-1946 ông Phạm Ngọc Thạch còn ghé qua 54 Hàng Gai lần cuối để đón ông bà Thiện đi sơ tán, nhưng vì đã quyết ở lại tham gia chiến đấu, nên ông bà Thiện không đi. Sau 10 ngày đêm tham gia chiến đấu, có liên lạc vào đón, ông bà Thiện đã tổ chức đưa 300 cán bộ và nhân dân rút ra vùng tự do. Cuộc rút khỏi Hà Nội, qua đường bãi sông Hồng, gầm cầu Long Biên cũng đầy gian nan nguy hiểm. Trong một phút gay go, ông bà Thiện đã nói nhỏ với nhau: “Trong hai người, phải cố sống ít nhất một để nuôi con!”.

                     
                          Ảnh minh họa: Cảm tử quân ôm bom ba càng chặn đánh xe tăng địch.
                                                Ảnh tư liệu Bảo tàng Cách mạng Việt Nam

Nhật ký của Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến[25] viết:
          26.12.46
          Nghe tin vợ chồng Đỗ Đình Thiện đương còn ở lại chiến đấu tại phố mình và đường ra rất khó khăn và nguy hiểm. Gương dũng cảm của một gia đình đại tư bản.”
          1.1.1947
          Vợ chồng anh Đỗ Đình Thiện về được đêm hôm qua 10 giờ. Những lo hai ông bà không lọt được tay người Pháp…Vợ chồng Thiện vẫn còn khỏe. Gặp chị Thiện chẳng có gì lạ! Tinh thần quả cảm của hai vợ chồng ấy cũng đáng khen.”

Ảnh: Bìa sách “Nhật ký của một bộ trưởng” của Lê Văn Hiến, Tập I,
Nhà xuất bản Đà Nẵng, Tái bản lần I, 2004
 
         

          Sau khi rút khỏi Hà Nội về tới Vân Đình, ông Thiện được giao nhiệm vụ thu mua thóc để dự trữ cho Quốc phòng, còn bà Thiện nhận nhiệm vụ thu mua vàng của đồng bào tản cư để vừa giúp đỡ đồng bào, vừa tích lũy cho Nhà nước.

9. NHÀ MÁY IN TIỀN VÀ ĐỒN ĐIỀN CHI-NÊ
          Để có máy in tiền, giải quyết những khó khăn lớn về tài chính của chính quyền cách mạng, ông bà Đỗ Đình Thiện đã bỏ tiền mua nhà máy in Taupin của người Pháp biếu cho Chính phủ, sau đó để Bộ Tài chính sử dụng một cơ sở của đồn điền Chi-nê, thuộc sở hữu của ông bà, để đặt nhà máy in tiền của nhà nước ta trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Trong cuốn “60 năm Tài chính Việt Nam 1945-2005”[26] có đoạn viết:
“Để đảm bảo việc sản xuất tờ bạc Việt Nam được an toàn và ổn định lâu dài, lãnh đạo Bộ đã chỉ đạo Cơ quan Ấn loát tổ chức sơ tán toàn bộ thiết bị máy móc, nguyên liệu của nhà máy in bạc ra khỏi Hà Nội. Nhà máy này nguyên là nhà in Tô-panh Hà Nội được nhà tư sản yêu nước Đỗ Đình Thiện mua hiến cho Chính phủ. Địa điểm sơ tán là xã Cổ Nghĩa – Chi Nê thuộc huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình.”

Ảnh: Cơ sở chính Đồn điền Chi-nê của ông bà Đỗ Đình Thiện, nơi đặt nhà máy in tiền
    trong thời kỳ đầu cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp

Tài liệu “Nhà in Ngân hàng – 50 năm xây dựng và trưởng thành”[27] cũng viết:
            “Nhà tư sản yêu nước Đỗ Đình Thiện đã bỏ tiền mua nhà in Taupin hiến cho Chính phủ, tại đây tờ giấy bạc 100 đồng (tờ bạc con trâu xanh) đã ra đời.”
Nhà máy in tiền được di chuyển toàn bộ về đồn điền Chi-nê trong tháng 11-1946. Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến đã có mặt tại đây từ 24 giờ ngày 19-12-1946. Trưởng Ban Tài chính của Đảng Nguyễn Lương Bằng cũng đã có mặt ở đây ngày 21-12-1946.      
         
         

Ảnh: Tài liệu “Nhà in Ngân hàng – 50 năm xây dựng và trưởng thành”
           Nguyên bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến xác nhận:
          “Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ông bà Đỗ Đình Thiện đã có nhiệt tình đóng góp cho cuộc kháng chiến: ông bà đã dành một địa điểm rất thích hợp tại Cổ Nghĩa Chinê (Hà Nam Ninh) để bộ tài chính xây dựng một nhà máy in bạc tương đối lớn, đáp ứng yêu cầu về tài chính trong thời gian đầu kháng chiến.”

Ảnh: Giấy chứng nhận của ông
Lê Văn Hiến
nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
 
         

          Trong bài “Năm đầu tiên của giấy bạc Cụ Hồ”[28], ông Lê Văn Hiến viết:
          “Ở Chinê chúng tôi đặt cơ sở tại đồn điền của ông bà Đỗ Đình Thiện, một nhà tư sản lớn, giầu lòng yêu nước, đã từng tham gia chống thực dân Pháp ở Paris, bị Chính phủ Pháp trục xuất về nước. Ông Đỗ Đình Thiện dành cho chúng tôi nhà xưởng và nhiều tiện nghi khác để đặt cơ sở in tiền. Chỉ trong 1 tháng cơ sở đã bắt đầu hoạt động và đã in được một số tiền dự trữ cho Bộ Quốc phòng.”

Ảnh: Tiền Tài chính 100 đồng “con trâu xanh”, một trong những tờ giấy bạc được in tại nhà máy in tiền ở đồn điền Chi-nê.
         
Mục tiêu bị lộ, máy bay Pháp đến oanh tạc, gây tổn thất lớn cho đồn điền. “Nhật ký của một bộ trưởng”[29] viết:
          24.2.47
          Ngày 22 hồi 3 giờ 30, 8 chiếc khu trục Pháp đến tấn công tại khu vực đây …Tại đây thả tất cả 8 quả bom, 2 quả trúng đích làm hư hỏng nhà ở của vợ chồng anh Đỗ Đình Thiện.”
         
 Ảnh: Quang cảnh hiện nay nơi đặt Nhà máy in tiền tại Đồn điền Chi-nê trước đây

25.2.47
          Hai vựa café của ông Đỗ Đình Thiện bị tiêu ra tro, cháy trong một tuần lễ vẫn chưa tắt. Trong cuộc kháng chiến này, sự hy sinh của gia đình Đỗ Đình Thiện đối với quốc gia thật rất lớn, một sự nghiệp to tiêu tan không mấy chốc.
8.3.47
          Chiều nay trời ảm đạm quá …, cảnh tượng tiêu điều quá! Thiện đương đi bách bộ trước sân đôi mắt đăm đăm suy nghĩ, chị Thiện loay hoay sắp đặt công việc suốt ngày với một đống rác ngổn ngang trong nhà, trước sân, ngoài cửa ngõ.
Nhìn lại nhà cửa cơ đồ của Thiện, phút chốc vì tình thế mà biến đổi như thế này, kể cũng thương tâm. Một lời an ủi từ đáy lòng đưa ra. Cảnh tượng tiêu điều nhưng đầy tình tứ cao siêu của một người dân biết chia bùi sẻ ngọt với quốc gia khi lâm nạn.
Thiện cười ngạo nghễ. Chị Thiện cũng cười và đưa tay chỉ đống đồ đạc ngổn ngang: “thế mà vui đấy anh ạ”. Không biết chị có thật vui hay không nhưng trên nét mặt vẫn vô cùng thản nhiên và quả quyết.”

10. NUÔI BỘ ĐỘI
          Những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, đồn điền Chinê là nơi nuôi dưỡng nhiều đơn vị bộ đội, đặc biệt là một số đơn vị của đoàn quân Nam tiến trước lúc lên đường ra trận.

Ảnh: Thư của Chính trị bộ Vệ quốc đoàn Chiến khu hai gửi ông Đỗ Đình Thiện
Ngày 21-11-1947
 

Ông bà Đỗ Đình Thiện đã ủng hộ bộ đội Chiến khu 2 rất nhiều lương thực, thực phẩm. Nói riêng, trung bình mỗi ngày thịt một con bò. Riêng vụ lúa Thu năm 1946-1947 ông bà Đỗ Đình Thiện đã ủng hộ Vệ quốc đoàn Chiến khu hai 200 tấn thóc để nuôi quân. Khu trưởng Hoàng Sâm và Chính trị ủy viên Lê Hiến Mai đã có thư cảm ơn. Bức thư viết:
          “…Toàn thể bộ đội Khu hai rất cảm động được Ngài ủng hộ vụ lúa Thu trong quí đồn điền năm 1946 và 1947. Vậy nhân danh Bộ chỉ huy tối cao Chiến khu hai, chúng tôi xin thay mặt toàn thể bộ đội trân trọng gửi Ngài lời cảm ơn.
Với lòng tha thiết của Ngài trước công cuộc kháng chiến hiện nay, toàn thể bộ đội Khu hai xin hứa luôn luôn nỗ lực chiến đấu, quyết hợp lực cùng toàn dân phá tan kế hoạch mùa đông của địch để xứng đáng với nhiệt tình Ngài đã dành cho.”

11. BÁC HỒ VỚI ĐỒN ĐIỀN CHINÊ
          Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ đã nhiều lần qua lại đồn điền Chinê, dừng chân hoặc nghỉ đêm tại nhà riêng ông bà Đỗ Đình Thiện.
          Có lần Bác đến vào buổi tối, chỉ nghỉ lại mấy tiếng đồng hồ. Trước khi đi, Bác vào tận phòng ngủ, vén màn hôn “thằng bé con” một cái – Bác thường gọi con trai út ông bà Đỗ Đình Thiện như thế –  rồi lại lên đường.
          Khi Bác đến, ông bà Thiện thường bảo các con hát múa cho Bác vui. Nghe đến câu hát “Bác chúng em mắt như sao râu hơi dài” Bác tủm tỉm cười, đôi mắt Bác cũng “cười”, rồi đưa tay lên vuốt chòm râu đã điểm bạc.
          “Nhật ký của một bộ trưởng”[30] ghi:
          “18.2.47 – Trúc Sơn
          - Đạp xe về Vân Đình để sắm sửa đi Chinê.
          - Đem theo anh chị Thiện để đón tiếp Cụ.
          - Trong đêm nay Cụ đến và nghỉ lại Chinê.”
          “19.2.47
          - Cụ ở Chinê. Dân chúng không ai biết gì hết. Ban Giám đốc yêu cầu yết kiến Cụ nhưng không nên cho, vì Cụ muốn giữ kín khi đi.
          - 7 giờ tối đưa Cụ lên đường đi Thanh Hóa.”
          Trước khi Bác đi Thanh Hóa, bà Thiện chuẩn bị hai chai sữa tươi để Bác dùng dọc đường. Chẳng may, trên đường động cơ xe ôtô bị cháy. Không có nước, đành dùng 2 chai sữa để chữa cháy!
          Ông Lê Văn Hiến viết[31]:
          21.2.47 – Chinê
          Cụ trở lại Chinê hồi 3 giờ sáng sau cuộc kinh lý Thanh Hóa. Cụ đi thăm nhà máy và lùng sục khắp các nhà …Nói chuyện với anh em công nhân và tự vệ ở đây, Cụ đã làm cho ai nấy đều thêm tin tưởng…”
          Bác cùng ông Nguyễn Lương Bằng và gia đình Đỗ Đình Thiện đi thăm một số cơ sở của đồn điền Chinê. Bác nói: “Đã nghe nói từ trước, nhưng vào đây mới thấy đồn điền này lớn thật”. Ông Thiện nói đùa: “Chi-nê nhất đái vạn đại dung thân”[32]. Bác “hứ” một cái và cười vui.
          Trong khi đi thăm đồn điền, có máy bay do thám “bà già” của Pháp bay qua. Bác cùng mấy đứa nhỏ - con cháu ông bà Thiện chui xuống một hầm cá nhân bên vệ đường. Mọi người khác tản ra xung quanh.
          Bác khuyên: “Chú thím cần tìm nơi sơ tán cho các cháu, tôi lấy làm lạ sao nó chưa đánh nơi này. Nó sẽ đánh đấy!”.
          Ngay hôm sau, 22-2-1947, ông bà Thiện đưa cả gia đình đi xem một cái hang có thể làm địa điểm sơ tán. Chiều đến, trên đường trở về nhà, chỉ còn cách nhà khoảng một cây số, 8 máy bay Pháp đến oanh tạc đồn điền. Cả gia đình ông bà Thiện nằm dưới các gốc cây trong vườn cà-phê chứng kiến vụ ném bom bắn phá này.
Hay tin máy bay Pháp oanh tạc đồn điền Chinê, Bác Hồ đã gửi thư thăm hỏi đến ông bà Thiện:
          “Chú thím Thiện. Được tin chú thím, nhà Hiền[33] và các cháu đều bình an, Tôi rất vui lòng. Mất cũa cãi không sợ. /Còn trời còn Nước còn non, thì còn cũa cãi bà con họ Hồ./ Kháng chiến thành công, ta làm ra cũa khác, chắc chắn hơn. Chúc các chú thím mạnh khõe. Hôn các cháu. Chào thân ái và quyết thắng.”

                                    
                                                  Ảnh:  Thư của Bác Hồ gửi ông bà Đỗ Đình Thiện

12. VIỆT BẮC (1947-1954)
          Ít ngày sau, ông bà Đỗ Đình Thiện đưa cả gia đình lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến. Đồn điền Chi-nê được giao cho Ban Kinh Tài của Đảng quản lý. Hành trình tản cư lên Việt Bắc của gia đình Đỗ Đình Thiện trải qua nhiều chặng: Nho Quan, Vụ bản, Phú Thọ, Tuyên Quang, Bình Ca, Chiêm Hóa, Trinh. Tại mỗi chặng dừng chân đều bị máy bay Pháp oanh tạc hoặc có nguy cơ giặc tấn công lên nên lại phải vội vã di chuyển.
          Phải công nhận rằng ông bà Thiện rất năng động, nhạy bén, dũng cảm trong việc tổ chức cuộc sống thời chiến cho cả đại gia đình. Tới đâu, dù ở lâu hay mau, thì việc đầu tiên là tổ chức ngay việc đào hầm trú ẩn, nhờ thế đã tránh được tối đa tổn thất về người.  Những nơi ở ngắn thì dựa vào dân hoặc làm lán tạm để ở; hễ ở lâu là tổ chức làm nhà lá, dựng nhà sàn, tăng gia, chăn nuôi, đánh bắt cá, làm cối xay sát gạo, tự làm nước mắm, làm tương…và “mậu dịch”[34] với đồng bào địa phương. Chính vì thế cuộc sống tuy gian khổ nhưng không đến nỗi quá thiếu thốn.
Việc học của trẻ con cũng được ông bà Thiện đặc biệt quan tâm: không có trường thì tổ chức học tại nhà, bác dạy các cháu, các chị lớn dạy các em nhỏ…Lúc mới lên Việt Bắc, gia đình Đỗ Đình Thiện có hàng chục người giúp việc cùng đi. Với thời gian “biên chế” cứ gọn nhẹ dần, nhiều người giúp việc được tuyển vào làm việc ở các cơ quan. Đến khi kết thúc chiến tranh gia đình Đỗ Đình Thiện chỉ còn lại một “lão bộc” rất trung thành. Ông này cũng đã có thời vào làm cơ quan, nhưng không thích nên sau lại xin về giúp việc gia đình.

                              
                                        Ảnh: Gia đình Đỗ Đình Thiện tại chiến khu Việt Bắc - 1950

Tại chiến khu Việt bắc, ông Thiện đã đảm nhận các nhiệm vụ công tác như: Giám đốc trưởng nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, Trưởng phòng Quỹ Ngân hàng Quốc gia Việt Nam… Bà Thiện thì được giao giữ kho tiền và tài liệu của Đảng, sau làm Thủ quỹ của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Suốt thời gian được ông Nguyễn Lương Bằng mời làm Giám đốc trưởng Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo (1948-1950), với bí danh Hai Chi[35], ông Thiện tình nguyện không nhận lương để “dễ điều hành” công việc.
          Ông Thiện sống gần gũi với anh em công nhân. Có lần ông đã cùng anh em đẩy mảng trên suối, chở một đầu máy xe lửa cũ để làm máy phát điện. Ông Thiện bị mảng kẹp vào đùi, may mà không gẫy chân! Ông cũng rất quan tâm đến đời sống của công nhân. Ông Nguyễn Nhân, Giám đốc chuyên môn của nhà máy thời bấy giờ, nhiều năm sau vẫn thường thích thú kể lại với mọi người rằng, chính ông đã được chứng kiến một cuộc thảo luận về công việc của nhà máy giữa ông Thiện – nguyên là một nhà tư sản, và ông Cả - nhà lãnh đạo cộng sản, trong đó ông Thiện nhất mực bênh vực quyền lợi của anh em công nhân.

                  
Ảnh: Ông Đỗ Đình Thiện ở Việt Bắc              Ngôi nhà của gia đình Đỗ Đình Thiện tại Phúc Linh,
                                                                                       Vinh Quang, Chiêm Hóa, Tuyên Quang
            

                      
                         Ảnh: Gia đình Đỗ Đình Thiện với một thân cây đổ bên bờ suối sau cơn bão rừng

                    
                    Ảnh: Ông Đỗ Đình Thiện (người đứng hàng đầu) tại Hội nghị Ngân hàng trưởng
                                                                             Việt Bắc - 1952

Về Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, sách “Tìm hiểu lịch sử một xí nghiệp”[36] của Thanh Đạm viết:
          “Ông Hai Chi[37] là một nhân sỹ trí thức yêu nước đã từng học ở Pháp, hăng hái ủng hộ cách mạng từ lâu. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông đi theo cơ quan Đảng và Chính phủ lên Việt Bắc và đã hiến cả tài sản của mình là đồn điền Chi Nê cho cách mạng.
          Để khai thác hết khả năng của cán bộ có trình độ quản lý và kỹ thuật, anh Cả thành lập hẳn một ban giám đốc gồm có:
          - Ông Hai Chi, giám đốc trưởng.
          - Tống Minh Phương, giám đốc tiếp tế.
          - Nguyễn Nhân, giám đốc chuyên môn”
          “Anh Cả thường nói: “Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo của chúng ta có một đặc điểm quan trọng là: thời kỳ đầu, quyền chỉ huy sản xuất được trao cho các chuyên gia ngoài Đảng, vì lúc đó các đồng chí đảng viên, chưa có ai am hiểu kỹ thuật sản xuất. Chúng ta tin tưởng ở tinh thần yêu nước của các cán bộ kỹ thuật ngoài Đảng nên phải hết lòng bồi dưỡng để anh em vững bước đi theo đường lối của Đảng” ”.

Tại chiến khu Việt Bắc, gia đình Đỗ Đình Thiện được Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo thường xuyên qua lại, thăm hỏi. Ngược lại, theo truyền thống, gia đình Đỗ Đình Thiện luôn hiếu khách, quan tâm đến mọi người, ngay cả trong hòan cảnh kháng chiến khó khăn, gian khổ.
Đại hội II của Đảng, tiếp theo đó là Đại hội thống nhất Việt Minh   – Liên Việt, được tiến hành năm 1951 tại chiến khu Việt Bắc. Nhà ông bà Đỗ Đình Thiện ở gần ngay nơi tổ chức Đại hội, cách không đầy 1 km, thuộc thôn Phúc Linh, xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Những ngày này, không khí sôi nổi, nhộn nhịp từ Đại hội “tràn sang” cả nhà ông bà Thiện: nhà thường xuyên rất đông khách, trong đó nhiều vị là chỗ quen biết với ông bà Thiện từ lâu, và cũng nhiều vị mới, đặc biệt là các đại biểu từ miền Nam ra. Trong vài tấm ảnh còn lại, chụp tại nhà riêng ông bà Đỗ Đình Thiện, người ta thấy có các vị: Nguyễn Lương Bằng, Phạm Ngọc Thạch, Dương Bạch Mai, Ung Văn Khiêm, Bùi Lâm, Hà Huy Giáp, Phan Trọng Tuệ, Vũ Đình Huỳnh, Vũ Xuân Sắc, Lê Văn Hiền và chủ nhà Đỗ Đình Thiện


         



                            

                                   

Ảnh: Trong ảnh chụp tại nhà riêng ông bà Đỗ Đình Thiện ở Việt Bắc có mặt các vị: Nguyễn Lương Bằng, Phạm Ngọc Thạch, Dương Bạch Mai, Ung Văn Khiêm, Bùi Lâm, Hà Huy Giáp, Phan Trọng Tuệ, Vũ Đình Huỳnh, Vũ Xuân Sắc, Lê Văn  Hiền và Đỗ Đình Thiện
 
                             

           
                          Ảnh: Bác Hồ hôn cháu Đỗ Long Vân, con trai ông bà Đỗ Đình Thiện
                                        Việt Bắc – 1951.  ẢnhLưu trữ Bảo tàng Hồ Chí Minh
Cũng trong những ngày này, gia đình Đỗ Đình Thiện đã may mắn có dịp được gặp lại Bác nhiều lần: có lần Bác sang thăm gia đình, có lần Bác đón bọn trẻ con sang chỗ Đại hội xem phim, chụp ảnh với Bác, có lần Bác tới rồi nghỉ lại để hôm sau đi công tác sớm…

     
                          Ảnh: Bác Hồ với các con “nhà Thiện” và “nhà Hiền”, Việt Bắc - 1951

Một buổi tối Bác sang thăm gia đình Đỗ Đình Thiện, rồi đón các cháu  sang xem phim. Đến trạm gác vào khu vực Đại hội, bộ đội gác hỏi giấy tờ. Bác chẳng mang theo giấy tờ gì cả! Thế là người ta giữ cả mấy bác cháu lại, không cho vào. Bác thản nhiên vui vẻ đứng đợi và nói chuyện bình thường với các cháu. Một lúc sau, Ban tổ chức biết chuyện và cho người ra đón. Người ta trách đồng chí bộ đội gác cổng, đồng chí này thản nhiên trả lời rằng: Vì không biết đấy là Bác Hồ, tưởng là ông già địa phương nào đó dẫn các cháu đi chơi.
Bận việc, Hồ Chủ tịch không tham dự hết Hội nghị thống nhất Việt Minh – Liên Việt được. Tối hôm đó Bác nghỉ lại tại nhà Đỗ Đình Thiện để hôm sau đi sớm. Quanh bếp lửa nhà sàn, cùng với Bác và gia đình Đỗ Đình Thiện, còn có một số vị khách khác. Bác nói: Bác muốn viết thư chào và xin lỗi các đại biểu dự Hội nghị, chú nào có giấy bút thì viết hộ Bác. Mọi người “tiến cử” ông Trần Văn Giầu, được xem là “văn hay chữ tốt” nhất ở đấy. Ông Giầu lấy ra một tờ giấy trắng. Bác bắt đầu đọc. Ông Giầu đặt bút vào giữa trang giấy, chuẩn bị viết. Bác bỗng dừng lại hỏi: “Chú làm gì thế?”. Ông Giầu và mọi người chợt hiểu ra rằng Bác không muốn cho viết từ giữa trang giấy, mà phải viết từ đầu trang cho tiết kiệm. Ông Giầu cười ngượng nghịu và đành làm theo ý Bác.
Tối đó, quanh bếp lửa, các con của hai nhà Thiện - Hiền cũng biểu diễn văn nghệ để Bác xem. Sau đó, Bác yêu cầu các chú có mặt ở đó phải hát để “đáp lễ”. Các chú bí quá đành nhờ các cháu chia 2 bè hát trống quân để các chú “hát dựa”. Tối khuya, bà Thiện mắc màn mời Bác đi nghỉ. Bác không chịu vào màn, đòi nằm ngủ ngay cạnh bếp lửa. Ông Thiện không đồng ý nói: “Thưa Bác, nếu Bác không vào màn thì chúng tôi và các cháu xin phép được khiêng Bác vào”. Thế là Bác đành vào màn, và nói thêm: “Các cháu bé, cháu nào không đái dầm thì vào ngủ với Bác”.
Vì biết Bác Hồ trước đây đã có thời bị lao, bà Thiện rất lo lắng cho sức khỏe của Người. Cũng như thời gian Bác ở số 8 Vua Lê (Hà Nội), hễ có dịp là bà Thiện tìm mọi cách chăm sóc sức khỏe của Người. Đỗ Thiên Hương, con gái út ông bà Thiện, nay là bác sỹ, còn nhớ: Hồi kháng chiến ở Việt Bắc, mẹ tôi có mang theo được ít vỉ yến khô, nhưng không bao giờ thấy mẹ tôi làm để ăn. Trong dịp Bác đến dự Đại hội II này, mẹ tôi đem yến ra ngâm, bảo chị em chúng tôi cùng nhặt những sợi lông yến còn sót, rồi mẹ tôi tự tay hấp yến với đường phèn để Bác dùng.
Ông Đỗ Đình Thiện - vốn là người vui tính và yêu văn nghệ. Hơn nữa, trong hoàn cảnh kháng chiến gian khổ và thiếu thốn, ông luôn muốn tạo niềm vui cho gia đình và những người xung quanh. Ông đã lập ra một đội văn nghệ gia đình gọi là “Đoàn kịch Mê Linh” mà diễn viên toàn là con cháu trong nhà, chủ yếu là ba người con bé “nhà Thiện” và “nhà Hiền”, gồm có Đỗ Thiên Hương (10 tuổi), Lê Lan Phương (8 tuổi) và Đỗ Long Vân (7 tuổi). Việc sưu tầm kịch bản, đạo diễn, huấn luyện đều do một mình ông Thiện đảm nhiệm. “Đoàn kịch nhí” này đã biểu diễn phục vụ, được cán bộ công nhân nhà máy Trần Hưng Đạo và bà con địa phương yêu mến.

Ảnh: Đoàn kịch “nhí” Mê Linh diễn vở “Thi đua lập công”
Đỗ Thiên Hương trong vai vệ quốc đoàn
Lê Lan Phương trong vai thôn nữ
 

Trong Đại hội Đảng II, không có đoàn văn nghệ chuyên nghiệp nào đến phục vụ, chỉ có văn nghệ nghiệp dư thôi. Thế là “Đoàn kịch nhí” Mê Linh của gia đình Đỗ Đình Thiện lại được vinh dự tham gia biểu diễn phục vụ Đại hội. Hôm đó, dưới ánh lửa trại bập bùng ngoài trời, “Đoàn kịch nhí” diễn vở “Thi đua lập công”, rồi “Cao sinh Cao mẫu”[38]. Kết thúc buổi diễn, nhà thơ Tố Hữu tỏ lời khen ngợi và nói thêm: “Các chú có thiếu sót là chưa sáng tác kịp thời những vở diễn dành cho thiếu nhi, để các cháu phải diễn những vở “già” quá lứa tuổi!” Kháng chiến gian khổ thật, nhưng đôi khi cũng có những niềm vui nho nhỏ và những kỷ niệm đẹp khó quên!
Có lần, các con ông bà Thiện biếu Bác trứng và rau nhà tăng gia được, Bác đã làm bốn câu thơ cảm ơn, đánh máy trên tấm thiếp chúc tết Tân Mão (1951) của Bác:
          “Cãm ơn các cháu,
                    Biếu Bác trứng, rau,
                             Bác chúc các cháu,
Học hành tiến mau.”

                    
                                Ảnh: Thiếp chúc tết Tân Mão (1951) của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trong một thư khác Bác viết”
“Các cháu nhà Thiện, nhà Hiền,
Nhân zịp bác Cả[39] về, Bác không có gì gỡi biếu các cháu. Bác gỡi các cháu mượn xem 1 quyễn tiễu sữ cũa 1 cháu nhi đồng Nam-bộ. Các cháu xem xong, bác sẽ gỡi cho các cháu khác xem.
Cãm ơn Thím Thiện đã biếu 2 chai tương rất ngon.
Chúc các chú thím mạnh khõe, và Hôn các cháu.”

       
                                     Ảnh: Thư Bác Hồ gửi cho các cháu nhà Thiện, nhà Hiền

Các con gái lớn “nhà Thiện” và “nhà Hiền”, gồm Đỗ Thanh Liên, Lê Thị Hồng Minh và Đỗ Kim Anh, được giao thêu áo để Bác gửi tặng chiến sỹ ngoài mặt trận. Trong một thư gửi ông Nguyễn Lương Bằng, Bác gửi lời khen:
“Chú Cã,
Thư chú viết hôm 22, hôm 27 tiếp được. Lần này z.t.[40] mau hơn.
          - Áo nhận được cả rồi.
          - Gỡi lời khen các cháu nhà Thiện nhà Hiền thêu khéo. Còn nhiều ít áo đồ đang thêu?”

                                             
                                            Ảnh: Thư Hồ Chủ tịch gửi ông Nguyễn Lương Bằng

Trong một thư gửi ông bà Thiện, Bác viết:
“Gỡi Chú Thím Thiện,
Cãm ơn chú thím đã gỡi biếu 1 bộ áo rất đẹp, nhất là cái zì cũng tự tay mình làm lấy.
Nge nói các cháu thêu khéo. Bác gỡi lời khen các cháu và hôn các cháu.
Thân ái
12/48
Bác”

             
                                                Ảnh: Thư Bác Hồ gửi ông bà Đỗ Đình Thiện

Năm 1952, ông bà Đỗ Đình Thiện chuyển sang nhận công tác ở Ngân hàng Trung ương vừa được thành lập. Cơ quan mới chuyển đến Cầu Bì thuộc ATK (An toàn khu, Thái Nguyên), còn rất khó khăn thiếu thốn. Gia đình ông bà Thiện ở nhờ và ở chung với một gia đình đồng bào địa phương, trên một ngôi nhà sàn, dưới gầm nuôi trâu, lợn, gà. Nhà ở cách đường mòn vài chục mét.
Một lần Bác đi công tác qua, cưỡi ngựa vào tới nửa ngõ mới phát hiện là gia đình ở chung với đồng bào. Bác quay ngựa ra, cho cần vụ vào gọi gia đình ra đường gặp Bác. Sau khi hôn các cháu, Bác ngồi xuống vệ đường nói chuyện, thăm hỏi gia đình, rồi cầm một cái que vẽ đường đi đến chỗ Bác ở. Bác nói: “Mời chú thím vào chơi, các cháu thì Bác không mời vì nhỡ đi về ốm lại “đổ tại” Bác; và nếu chú thím ở đây khó khăn, chú Cả chưa làm được nhà, thì chú thím và các cháu vào ở chỗ Bác.”
Bác quan tâm, sẵn sàng chia sẻ khó khăn với gia đình vậy đó. Nhưng ông bà Thiện là những người khí khái, tự trọng, không bao giờ lạm dụng lòng tốt của Người. Gia đình Đỗ Đình Thiện, dĩ nhiên, không vào ở chỗ Bác, thậm chí cũng không bao giờ vào đó chơi. Có lần, các con ông bà Thiện hỏi: “Sao Bác mời mà bố mẹ không vào thăm Bác?”. Ông Thiện trả lời: “Đang chiến tranh, chỗ Bác ở cần phải giữ bí mật, không có việc thì không nên vào”.
Khi chiến dịch Điện Biên Phủ  ở giai đoạn cao trào, khoảng cuối 1953 đầu 1954, cần phải huy động rất nhiều nhân lực, vật lực. Bà Thiện, lúc ấy đang tạm nghỉ việc ở Tuyên Quang để chuyển công tác khác, đã xung phong đi dân công làm đường hàng tháng trời để phục vụ chiến dịch. Còn con gái cả ông bà Thiện, chị Đỗ Thanh Liên[41], đang là học sinh lớp 8 trường Tân trào, Tuyên Quang, đã xung phong đi phục vụ tiền phương chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong số 28 học sinh của trường xung phong đi đợt đó, chỉ mình Đỗ Thanh Liên là nữ. Tiễn con gái lên đường, ông Thiện nói với con: “Bố mẹ rất tiếc không có con trai lớn để tham gia đánh giặc, bố mẹ rất hãnh diện về việc làm này của con.”

13. TRỞ VỀ THỦ ĐÔ
Ông Đỗ Đình Thiện nghỉ công tác từ 1953: Từ sau tai nạn ô tô ở Pháp  (17-7-1946), Ông thường bị chóng mặt. Hồi còn ở Việt Bắc, có lần đang tăng gia trồng rau ngoài ruộng, Ông phải ôm lấy cột hàng rào cho khỏi ngã!
Sau ngày kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Ông trở về Thủ đô, sống tại nhà riêng ở 76 Nguyễn Du, Hà Nội.

                            
                                                             
                                  Ảnh: Ông Đỗ Đình Thiện tại 76 Nguyễn, Hà Nội, 1955 - 1956

Từ 1958 đến 1972 ông Đỗ Đình Thiện tham gia và được bầu là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ông tích cực hoạt động và hoàn thành có trách nhiệm mọi việc được giao.
Sau kháng chiến, gia đình Đỗ Đình Thiện hầu như hoàn toàn phá sản, cuộc sống không còn phong lưu như xưa nữa. Nhưng trước sau như nhất, ông bà Thiện vẫn rất hiếu khách, quan tâm đến bạn bè, và luôn sẵn lòng giúp đỡ bạn bè khi cần. Chẳng hạn, có một thời ông Nguyễn Lương Bằng bị chẩn đoán “ung thư vòm họng!”, phải đi Trung Quốc khám và điều trị. Bà Thục Trinh, vợ Ông, rất ngang ngửa: không biết nên đi theo chăm sóc Ông hay ở nhà với các con vì bốn con đều còn nhỏ! Ông bà Thiện đã động viên bà Trinh: “Chị cứ yên tâm đi theo chăm sóc anh cho chu đáo. Nếu anh phải điều trị lâu dài ở bên đó thì các cháu ở nhà đã có chúng tôi lo”. Thế là vợ chồng ông Bằng lên đường đi Trung Quốc, tạm gửi người con gái cả cho ông bà Thiện chăm sóc. Rất may, sau khi kiểm tra kỹ tại Trung Quốc, ông Bằng không bị ung thư và đã trở về.
Các bạn và đồng chí cũ của ông Thiện như các ông Trần Văn Giầu, Trương Công Quyền, Nguyễn Văn Dựt, Phan Tư Nghĩa, Châu Lượng, Bùi Lâm, Nguyễn Tạo, Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Nguyễn Khánh Toàn …vẫn thường xuyên có mặt tại gia đình Đỗ Đình Thiện. Một số vị khác như Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Văn Hoan, Trần Duy Hưng …cũng thỉnh thoảng tới thăm, đặc biệt là vào các dịp lễ tết. Còn Bác Tôn Đức Thắng thì đã có lần đi xe đạp đến 76 Nguyễn Du để thăm gia đình  Đỗ Đình Thiện.

            
                                Ảnh: Ông bà Đỗ Đình Thiện và các con, Hà Nội, 1955 - 1956

Mặc dù hoàn cảnh kinh tế của gia đình lúc này không lấy gì làm sung túc, thậm chí khó khăn, ông bà Đỗ Đình Thiện vẫn rất quan tâm đến việc giáo dục các con, và đã hết sức cố gắng để cả bốn người con đều được học đại học.
Một lần vào dịp tết, khoảng năm 1960, Bác Hồ đã tới thăm gia đình ở 76 Nguyễn Du. Nhìn thấy trên bàn ăn có bánh trưng Bác vui vẻ nói:  “Thế là có Tết rồi đây!”. Gia đình Đỗ Đình Thiện tiếp Bác ở phòng khách tầng 1. Biết con gái thứ 3 của ông bà Thiện, cháu Đỗ Thiên Hương, bị ốm nằm trên lầu, Bác lên tận nơi thăm hỏi. Những năm sau đó, Đỗ Thiên Hương thường hay được lên nhà Bác chơi.
Chị Đỗ Thiên Hương kể: Trong lần tiếp ông bà luật sư Lô-dơ-bi cùng con gái sang thăm Việt Nam vào Tết Canh Tý 1960, Bác chỉ vào tôi giới thiệu với khách: “Cháu gái này là con một gia đình vốn là đại tư sản yêu nước ở Hà Nội. Nay cả bốn người con đều vào đại học”. Một lần, hai Bác cháu đang dạo chơi trong vườn nhà Bác thì gặp bác Lê Duẩn đi sang. Bác Hồ chỉ vào tôi nói với bác Lê Duẩn: “Cháu đây là con chú thím Thiện”. Bác Duẩn vui vẻ đặt hai tay lên vai tôi và nói: “Mẹ cháu ngày xưa cùng ở tù với chú. Mẹ cháu tốt lắm, khi chú ốm, mẹ cháu đã chăm sóc chú rất chu đáo, còn giặt quần áo cho các chú nữa…”

Ảnh: Bác Hồ đón gia đình luật sư Lô-dơ-bi, Tết 1960.
Đỗ Thiên Hương (đứng giữa), con gái  ông bà Đỗ Đình Thiện, đang tặng hoa ông Lô-dơ-bi












 

Một dịp khác, Bác mời cả gia đình Đỗ Đình Thiện lên Chủ tịch phủ, nói chuyện ở phòng khách, và sau đó xem phim cùng với Bác.
Sinh thời, ông bà Đỗ Đình Thiện sống giản dị. Ông không có lương hưu, và hưởng bìa N (là tiêu chuẩn phân phối thấp nhất thời bao cấp dành cho dân thường). Khi ông Thiện lâm bệnh nặng vào điều trị tại Bệnh viện  Việt - Xô, bác sỹ Bùi Kỳ, Chủ nhiệm khoa Tim mạch, đã lúng túng không biết xếp Ông vào tiêu chuẩn nào (thời đó thuốc điều trị phụ thuộc vào lương và cấp bậc!).  Bác sỹ Kỳ về kể với gia đình rằng: “Trong bệnh viện có một trường hợp rất lạ: một ông già chẳng có chức vụ gì, thậm chí không có lương, nhưng các đồng chí cán bộ cao cấp cứ thay nhau vào thăm!”
Gần đây, ông Trần Văn Giầu kể lại: Trong một lần từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội, ông đã tới thăm ông Phạm Văn Đồng. Lúc chia tay, ông Giầu nói: “Bây giờ tôi tới “thăm” “ông bạn triệu phú” của tôi đây”. Ông Đồng liền hỏi: “Anh đến anh Thiện à?”. Ngừng một lúc, ông Đồng nói tiếp: “Anh Đỗ Đình Thiện là một người rất đặc biệt: Bác Hồ và tôi làm việc cho cách mạng còn phải có lương, nhưng anh Thiện thì không chịu nhận lương!”
Ông Thiện rất yêu và hiểu tâm lý trẻ con. Ông chiều các cháu tới mức có lần đã đem quả buộc lên cây để các cháu tự hái “cho sướng”… Cho đến nay, con một số bạn của Ông, như Bùi Lâm, Nguyễn Tạo, Nguyễn Lương Bằng, Châu Lượng, Bùi Công Trừng … vẫn giữ mãi những kỷ niệm đẹp thời thơ ấu với “Bác Thiện”.
            
Ảnh: Ông Đỗ Đình Thiện và các con ông Bùi Lâm        Ảnh: Ông bà Đỗ Đình Thiện và cháu ngoại
                                                                                                                   đầu tiên  Văn Trung

14. VỀ CÕI VĨNH HẰNG
          Ông Đỗ Đình Thiện mất ngày 2 tháng 1 năm 1972 (tức 16-11 Tân Hợi) tại Bênh viện Việt-Xô, hưởng thọ 69 tuổi. Đó đúng vào dịp máy bay Mỹ tạm ngừng đánh phá miền Bắc và Hà Nội. Ông Đỗ Đình Thiện lặng lẽ ra đi, không có điếu văn ( thời đó chưa có thói quen đọc điếu văn trong lễ tang đối với nhân dân và cán bộ bình thường), nhưng để lại niềm tiếc thương vô hạn và kỷ niệm đẹp trong lòng người thân, họ hàng, bạn bè, đồng chí từ thành phố đến thôn quê.
         
                 
                                                      Ông Đỗ Đình Thiện (1904-1972)

Trong thời gian bệnh nặng, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng và nhiều cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước đã vào bệnh viện thăm Ông.
          Khi Ông qua đời, Tổng bí thư Lê Duẩn, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh cùng phu nhân đã đến viếng và chia buồn cùng gia đình.

  
                 Ảnh: Tổng bí thư Lê Duẩn viếng ông Đỗ Đình Thiện và chia buồn cùng gia đình

 

Ảnh: Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh cùng phu nhân viếng ông Đỗ Đình Thiện
và chia buồn cùng gia đình

Phó Chủ tịch nước Nguyễn Lương Bằng, Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam Hoàng Quốc Việt, Phó thủ tướng Phan Kế Toại, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội Trần Duy Hưng, Bí thư thành ủy Hà Nội Nguyễn Văn Trân, và nhiều vị cao cấp khác đã đến viếng và tiễn đưa Ông.
Trong số các bạn học và đồng chí cùng hoạt động tại Pháp đến viếng và tiễn đưa ông Đỗ Đình Thiện, người ta thấy có các vị: Trần Văn Giầu, Trương Công Quyền, Nguyễn Xiển, Phan Tư Nghĩa, Nguyễn Văn Dựt, Châu Lượng, Phi Hoanh …

  
Ảnh: Các ông Hoàng Quốc Việt, Trần Duy Hưng, Trần Văn Giầu, Phi Hoanh, Trương Công Quyền, Phan Tư Nghĩa, Nguyễn Văn Dựt trong lễ tang ông Đỗ Đình Thiện
                                                   
Ông Trần Văn Giầu kể rằng, trong lễ tang người ta nói với nhau: “Anh Đỗ Đình Thiện, khi có một xu dính túi cũng như khi có một triệu đồng trong túi, đối với bạn không thay đổi, lúc nào cũng sẵn lòng giúp đỡ bạn”. Thật ra thì đã từ lâu ông Thiện được bạn bè mệnh danh là “Mạnh Thường Quân”.
Thân bằng cố hữu ở Thủ đô ngậm ngùi tiễn đưa Ông, bà con thôn quê nhiệt thành đón Ông về an nghỉ nơi cánh đồng làng quê hương.

                  
                           Ảnh: Đám tang ông Đỗ Đình Thiện trên đường phố Nguyễn Du, Hà Nội

                        
                                                     Ảnh: Ông Đỗ Đình Thiện về với làng quê Cổ Nhuế
         
15. PHÚC ĐỨC NHỜ MẪU
Bà Thiện vốn tính trầm lặng, gan góc, nhưng sự ra đi của ông Thiện đã thực sự gây nên sự mất mát không thể bù đắp trong cuộc sống tinh thần của Bà. Người tinh ý có thể nhận thấy ở Bà một nỗi buồn bị kìm nén, kéo dài trong nhiều năm. Là người nhân hậu, giỏi nội trợ, khéo tay, cả cuộc đời Bà hết lòng vì chồng vì con. Còn ông Thiện, lúc sinh thời, rất thương cảm cho hoàn cảnh côi cút thời thơ ấu của Bà. Như để bù đắp phần nào sự thiệt thòi ấy, Ông thương yêu Bà một cách kín đáo, và thường có những cử chỉ quan tâm chăm sóc Bà một cách tế nhị. Chẳng hạn, sau kháng chiến ở Việt Bắc trở về Hà Nội, bà Thiện còn chưa biết đi xe đạp. Bà phải đi làm xa, ông Thiện đã giúp Bà tập xe.  Sáng sáng, Ông thường dậy sớm, lo bữa ăn sáng cho Bà, giắt xe ra cổng, chờ cho Bà lên xe đi khuất rồi ông mới trở vào…
Bà Thiện giấu nỗi buồn riêng vào sâu trong lòng, lấy việc tận tụy chăm chút, gây dựng cho con cho cháu làm niềm vui. Bà thực sự là chỗ dựa tin cậy của con cháu trong nhà và cả hai bên nội, ngoại. Chính nhờ lòng tận tụy, quả cảm và tấm gương hy sinh mẫu mực của Bà mà các con, các cháu đã ngày một trưởng thành, đứng vững được trước những  khó khăn, thử thách cũng như những đổi thay của thời cuộc.


Ảnh: Bà Thiện bên bàn thờ Ông
 
         

Con trai út ông bà Thiện, GS-TSKH Đỗ Long Vân, trong một chuyến công tác dài ngày ở nước ngoài, đã tâm sự cùng mẹ:
“Ai cũng bảo con lớn khôn rồi mẹ ạ,
Nhưng sao con vẫn thấy mình thơ dại quá!
Mỗi bước con đi, cuộc đời đầy xa lạ!
Mong Mẹ nhủ khuyên, Mẹ ở xa!”
Đỗ Thiên Hương, con gái ông bà Thiện, nhớ lại:
“Vào đầu những năm 80 thế kỷ trước, tình hình kinh tế ở miền Bắc nước ta vô cùng khó khăn. Hai vợ chồng tôi đều là bác sĩ chủ nhiệm khoa ở một bệnh viện, lại làm thêm đủ thứ như nuôi lợn, cuốn thuốc lá, rang lạc…mà vẫn rất chật vật để sống và nuôi hai con nhỏ. Tôi nẩy ra ý nghĩ chuyển vùng vào Nam, nhưng còn băn khoăn một nỗi mẹ già thiếu người chăm sóc. Hiểu thấu lòng con, mẹ tôi động viên: “Mẹ biết con còn băn khoăn, muốn được ở gần để chăm sóc mẹ. Nhưng nay mẹ tuổi đã cao, cuộc sống chỉ còn tính từng năm, còn con thì phải lo cho các cháu rất lâu dài. Mà mẹ cũng không thể thực sự yên lòng khi thấy các con quá khó khăn. Ở miền Nam, thiên nhiên có phần ưu đãi hơn, nông nghiệp trù phú hơn, mình nghèo thì ăn con cá con cũng vẫn sẵn. Khi cuộc sống gia đình con tạm ổn, mẹ con mình vẫn có thể ra vào thăm nom nhau được. Con đừng suy nghĩ quá nặng nề như thế!”.”
“Khi gia đình tôi đã chuyển vào thành phố Hồ Chí Minh, công tác ở Bệnh viện Thống nhất, trong vòng năm năm đầu (1985 – 1990), mặc dù tuổi đã cao, mẹ tôi đã 21 lần gửi thư cho tôi để động viên, khuyên bảo, căn dặn đủ điều. Trong một lá thư mẹ tôi viết: “Phấn đấu cũng có thời điểm, thời cơ, nếu cứ để trôi qua hoài thì rất phí. Các con ở ngoài này công tác đã rất tốt rồi, nay vào chỗ mới cũng cần cố gắng chăm chỉ làm tốt hơn để có uy tín với mọi người. Mình có tự trọng thì mọi người mới quý mình”. Trong một thư khác mẹ tôi dặn: “Đối với các cháu cũng phải nhắc nhở luôn: sống cho đoàng hoàng, trong sạch thì mọi người mới quý trọng mình. Làm những điều sai phạm, dù nhỏ, là tự bôi nhọ danh dự của mình, đến đâu cũng bị người ta khinh. Phải luôn nhớ “Đói cho sạch, rách cho thơm”…” Và rồi mẹ tôi cũng đã hai lần thu xếp vào thăm chúng tôi.”
“Với các con các cháu, mẹ tôi luôn vui vẻ, nhẹ nhàng, kiên trì khuyên bảo, cư xử công bằng, khách quan. Chẳng hạn, đối với con dâu, mẹ tôi không bao giờ nặng lời, mà chỉ nhẹ nhàng bảo ban một cách tình cảm để con dâu hòa nhập với sinh hoạt của gia đình mình. Thu Nguyệt - em dâu tôi cũng rất yêu quí và cảm phục bà. Trong những năm tháng mẹ tôi bệnh nặng, em Nguyệt đã luôn cùng chúng tôi tận tụy ngày đêm chăm sóc mẹ”.
Cháu trai Vy Đỗ Quang kể rằng, mỗi lần ngồi nhổ tóc sâu cho bà ngoại, Bà thường nhẹ nhàng tâm sự, khuyên bảo, dặn dò. Và có lần bà đã đọc cho  nghe hai câu thơ mà cháu nhớ mãi đến giờ:
“Làm việc nghĩa chẳng nên bàn lợi hại,
 Luận anh hùng xin chớ kể được thua”.
Còn cháu gái Vy Đỗ Quyên, người đã thường xuyên có mặt bên giường bệnh của bà, nhớ lại: “Bà hết mực thương yêu và quan tâm dạy bảo các cháu. Để cháu hiểu và biết quí thời gian, Bà hay tủm tỉm đọc:
“Thời giờ thấm thoắt thoi đưa,
 Nó đi, đi mãi, chẳng chờ đợi ai!”.”
Mỗi khi gặp nhau, các cháu nội, ngoại lại có dịp ôn lại những kỷ niệm về bà: Bà làm gì cũng hết sức tỉ mỉ, chu đáo. Bà sống rất ngăn nắp, trật tự, sạch sẽ, và chịu khó rèn luyện thân thể. Mặc dù tuổi cao, Bà luôn cố gắng tự làm lấy mọi việc, không muốn làm phiền ai bao giờ. Bà là tấm gương sáng mà chúng cháu phải suốt đời noi theo.


 
                                                Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện với các con các cháu (1974)
  
         Ảnh: Bà Thiện với vợ chồng con trai Đỗ Long Vân                        Bà Thiện với cháu nội đầu
                                 trong dịp cưới (1974)                                                       Đỗ Thanh Tùng (1980)
             


            

            
                                                 Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện với các con các cháu (1982)

                
               
Ảnh: Bà Thiện bế cháu nội thứ hai                 Bà Thiện với gia đình con trai Đỗ Long Vân (1989)
          Đỗ Đức Dũng (10-1986)




                                       Ảnh:  Bà Đỗ Đình Thiện trong dịp mừng thọ 80 tuổi (1992)

Từ 1971 đến 1976 bà Đỗ Đình Thiện được bầu là ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cũng như ông Thiện trước đây, Bà thực hiện mọi việc được giao với tất cả tinh thần trách nhiệm của mình.




16. TRỞ VỀ
Từ 1993 sức khỏe của bà Đỗ Đình Thiện có bước giảm sút rõ rệt, rồi bệnh cứ nặng dần lên. Bác sỹ Đỗ Thiên Hương kể về những ngày tháng cuối cùng của mẹ mình:
“Khi bệnh nặng, nằm tại giường, không đi lại được nữa, nói khó, ăn uống khó khăn, mẹ tôi đã gan góc chịu đựng những đau đớn, bứt dứt, không rên la, không bực bội, chấp hành nghiêm chỉ dẫn của thầy thuốc, lắng nghe lời an ủi, động viên của con cháu, cố làm yên lòng mọi người trong gia đình. Những giờ phút dễ chịu hơn, mẹ tôi lại kể cho tôi nghe những kỷ niệm cũ, đọc lại những vần thơ của các đồng chí cùng bị tù …”
“Một lần, ngồi bên mẹ, tôi đã đọc tặng bà mấy vần thơ vui như sau:
Bà ơi bà, con yêu bà lắm!
Tóc bà trắng là trắng như tơ,
Má thơm mịn như là quả mơ,
Môi bà hồng như môi trẻ thơ.

Bà ơi bà, con yêu bà lắm!
Mắt bà sáng là sáng như gương,
Trán bà rộng như là vừng dương,
Mũi bà thẳng như cây bạch dương.

Bà ơi bà, con yêu bà lắm!
Tóc bà trắng là trắng như tơ,
Bà thương người hơn thương trẻ thơ,
Chiến đấu kiên cường, cuộc đời bà rất thơ.
“Một chiều hè, tôi ngồi khoanh chân bên mẹ trên giường bệnh. Bỗng nhiên, bà nhấc đầu khỏi gối, chuyển sang gối vào lòng tôi. Bàn tay bà xoa xoa đầu gối tôi và ngước mắt nhìn trìu mến. Tôi tủm tỉm cười hỏi: “Cái gối” này có êm không hở mẹ? Mẹ tôi mỉm cười, nhẹ gật đầu. Ngờ đâu đêm hôm đó mẹ tôi đã mãi mãi ra đi!”
Thế là, sau hai mươi bốn năm “xa cách”, bà Đỗ Đình Thiện (tức Trịnh Thị Điền)  đã “trở về” bên Ông ngày 21-6-1996 (tức 6-5 Bính Tý), hưởng thọ 85 tuổi.

Bà Đỗ Đình Thiện (1912-1996)

 
           
                                                            
          Lễ tang bà Thiện được tổ chức tại số 5 Lê Thánh Tông. Họ hàng, bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp đến rất đông. Tổng bí thư Đỗ Mười, Cố vấn Phạm Văn Đồng đã gửi vòng hoa viếng bà Đỗ Đình Thiện.

              
Ảnh: Hoa viếng của Tổng bí thư Đỗ Mười, Cố vấn Phạm Văn Đồng
và gia đình đồng chí Trường Chinh

Ông Lê Văn Hiến và nhiều cán bộ cao cấp đã đến viếng bà Đỗ Đình Thiện và chia buồn cùng gia đình.

Ảnh: Nguyên Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến và nguyên Giám đốc Nhà máy in tiền tại đồn điền Chi-nê Phạm Quang Chúc (thứ 4 từ trái sang) viếng bà Đỗ Đình Thiện

          Phu nhân Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng Trưởng nữ đã chuyển thư chia buồn của Đại tướng tới gia đình. Sau đó đã tới đặt vòng hoa viếng bà Đỗ Đình Thiện.
          Đại diện gia đình các cố đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Tạo, Bùi Lâm, Bùi Công Trừng, Trần Duy Hưng … đã đến viếng bà Đỗ Đình Thiện.
          Thư chia buồn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết:
          “Tôi rất xúc động được tin buồn đ.c.[42] Trịnh Thị Điền (chúng tôi thường gọi là chị Thiện) từ trần. Đ.c. là một người phụ nữ mẫu mực đã suốt đời fục vụ nhân dân, fục vụ Đảng, từ những ngày đấu tranh gian khổ và hào hùng. Trong giờ phút đau thương, tôi và gia đình xin gửi đến toàn thể gia quyến và bà con thân thuộc đ.c. Điền lời thương tiếc vô hạn và lời chia buồn thống thiết nhất. Đ.c. Điền ra đi là một mất mát lớn cho các đ.c. và bạn bè thân hữu. Đ.c. Điền để lại một tấm gương sáng cho các thế hệ phụ nữ chúng ta.
          Tôi nhớ mãi hình ảnh chị Điền (chị Thiện)
          Hà Nội 24/6/96.”
           
             
                       Ảnh: Thư chia buồn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi gia đình Đỗ Đình Thiện
              
                    Ảnh: Phu nhân và Trưởng nữ Đại tướng Võ Nguyên Giáp viếng bà Đỗ Đình Thiện

           


             
                         Ảnh: Những giây phút cuối cùng con cháu quây quần bên bà Đỗ Đình Thiện

             
                                                  Ảnh: Các chắt ghi nhớ mãi lòng nhân ái của  Cụ
         
           
            
                                                Ảnh: Đám tang bà Đỗ Đình Thiện tại Hà Nội
            
                    Ảnh: Đưa bà Đỗ Đình Thiện về nơi yên nghỉ cuối cùng tại cánh đồng làng Cổ Nhuế

Cho dù bà Đỗ Đình Thiện ra đi ở tuổi 85, các con Bà rất đau đớn vì tổn thất này. Họ không muốn tin, đúng hơn là không muốn chấp nhận mình đã thực sự mất mẹ. Chính vì vậy, con trai Bà, trong lời tiễn biệt, thay vì câu “Vĩnh biệt mẹ!”, đã nói: “Tạm biệt mẹ trong một chuyến đi xa!”.


       Ảnh: Nơi an nghỉ của ông bà Đỗ Đình Thiện tại cánh đồng làng Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội

                             Ảnh: Bàn thờ ông bà Đỗ Đình Thiện tại 76 Nguyễn Du, Hà Nội


         
         
17. PHẦN THƯỞNG CAO QUÝ
          Năm 1950 ông bà Đỗ Đình Thiện được nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhì vì “Đã hăng hái tham gia kháng chiến, xung phong hiến điền và hy sinh tài sản cho Chính phủ”. Ông Nguyễn Lương Bằng cho biết ông bà Đỗ Đình Thiện là một trong hai trường hợp mà cả hai vợ chồng cùng được thưởng huân chương vào thời điểm đó[43].
Năm 1991, bà Đỗ Đình Thiện được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất.
Ông bà Đỗ Đình Thiện cũng được nhiều phần thưởng khác như Huy chương “Vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân”, Huy chương “Vì sự nghiệp tài chính Đảng”, Huy chương “Vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ” …
Sinh thời, Bác Hồ luôn dành cho gia đình Đỗ Đình Thiện tình cảm yêu quý và sự quan tâm đặc biệt. Ông Nguyễn Lương Bằng đã từng nói: Trong một lần, khi nhắc đến gia đình Đỗ Đình Thiện, Bác nói: “Gia đình ấy với mình chỉ là một”. Đó là một vinh dự lớn lao, một phần thưởng vô giá cho gia đình Đỗ Đình Thiện.
Trong nhiều năm, vào dịp kỷ niệm thành lập Đảng và Quốc khánh, ông bà Đỗ Đình Thiện thường được mời dự các cuộc gặp mặt của đại diện các gia đình cơ sở cách mạng với các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước.

Bà Thiện cũng đã được tổ chức cho đi tham quan và nghỉ dưỡng ở một số nước anh em như Trung Quốc, Liên Xô, Cộng hòa Dân chủ Đức.

                  
     Ảnh: Bà Đỗ ĐìnhThiện (hàng đầu, áo dài xẫm)
     trong đoàn tham quan Trung Quốc (cuối những năm 50 TK 20)


   
               Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện ( hàng đầu, áo dài trắng) trong đoàn tham quan Liên Xô (1974)
Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện (hàng đầu, áo trắng) trong đoàn đi nghỉ dưỡng và tham quan CHDC Đức (1989)
 

Cảm hứng trong chuyến đi thăm Cộng hòa Dân chủ Đức, bà Thiện viết:
“Tạo hóa xây nên cảnh hữu tình,
Bao la vũ trụ một mầu xanh,
Mênh mông thăm thẳm không bờ bến,
Lớp lớp trùng trùng mây bao quanh.
Con tầu rẽ gió bay lơ lửng,
Vượt mấy trùng dương đến Bá Linh,
Đưa đoàn du khách thăm nước bạn,
Đoàn kết bang giao thêm thắm tình.”

                          Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện cùng con cháu thăm nhà Bác (1985)


Ảnh: Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, thay mặt Chủ tịch nước trao Huân chương Độc lập hạng Nhất cho bà Đỗ Đình Thiện. T/p Hồ Chí Minh -1991

Ảnh: Bà Đỗ Đình Thiện (tức Trịnh Thị Điền) trong dịp được tặng thưởng
Huân chương Độc lập hạng Nhất
 
  

 Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí xả thân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, đức hy sinh cao cả vì lợi ích quốc gia, nhân cách vừa cao sang vừa bình dị và đạo đức trong sáng của ông bà Đỗ Đình Thiện còn mãi trong lòng con cháu, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, đồng chí,… và sáng mãi trong lòng dân tộc. Phải chăng, đó chính là phần thưởng cao quý nhất mà Tổ quốc và Nhân dân dành cho ông bà Đỗ Đình Thiện.

Ảnh: Đoàn đại biểu Câu lạc bộ Doanh nghiệp Việt Nam do TSKH. Nguyễn Văn Bảy (thứ tư từ  trái sang), Chủ tịch Câu lạc bộ, thắp hương tưởng niệm ông bà Đỗ Đình Thiện nhân Ngày Doanh nhân Việt Nam 13-10-2004
          
      
      



[1] Ông Đỗ Viết Dung là kỹ sư  hoả xa, ông Đỗ Văn Tùng là kỹ sư lục lộ, bà Đỗ Thị Hiên là thương gia.
[2] Thành viên chi bộ Hàm Long – chi bộ cộng sản đầu tiên ở nước ta.
[3] Tương đương tiểu học bây giờ.
[4] Chiến sỹ cách mạng, chết tại nhà tù Sơn La
[5] Bí danh của cô Trịnh Thị Điền.
[6] Camp: trại, ở đây nghĩa là bị bắt đi tù
[7] Ban Tài chính Quản trị Trung ương, Biên niên sử  Hoạt động tài chính của Đảng Cộng sản Việt Nam (Lưu hành nội bộ), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2000.
[8] Xem Hồi ký của bà Đỗ Đình Thiện, Phần III cùng sách này.
[9] Bộ Tài chính, 60 năm Tài chính Việt Nam 1945-2005 (Lưu hành nội bộ), Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, tháng 8-2005, trang 23-24.
[10] Dân chủ, 18-9-1945.
[11] Quốc hội, số 3, Thứ tư ngày 19-12-1945.
[12] Cứu quốc (Cơ quan Tuyên-truyền Tranh-đấu của Tổng-bộ Việt Minh) ,số 18, Thứ 7 ngày 5-1-1946,
[13] Đào Văn Sử, Chuyện 60 năm trước Tết này mới kể, Quân đội Nhân dân, Xuân Bính tuất 2006.
[14] Trưởng ban tổ chức “Lễ Độc lập” 2-9-1945.
[15] Việt-Nam Dân-quốc Công-báo ngày 19-1-1946
[16] Đỗ Đình Thiện (ghi), Nhật ký làm việc của Hồ Chủ tịch bốn tháng ở Pháp (22-6-1946-17-9-1946), xem Phần III cùng sách này.
[17] Nhật ký làm việc …, đd.
[18] Marius Moutet, Bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại.
[19] Géorges Bidault, Thủ tướng CH Pháp.
[20] Hoàng Minh Giám
[21] M. Jean Sainteny, Thống xứ CH Pháp tại Đông Dương.
[22] Dương Bạch Mai
[23] Trở về với Tổ quốc kính yêu, Hồi ký của GS. Trần Đại Nghĩa, Báo Lao động, số 74/93(3893), ngày 16-9-1993.
[24] Nhật ký làm việc…, đd.
[25] Lê Văn Hiến, Nhật ký của một bộ trưởng, Tập I, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1995; Tái bản lần thứ nhất, 2004.
[26] 60 năm Tài chính Việt Nam,  sđd, trang 43.
[27] Tài liệu: Nhà in Ngân hàng – 50 năm xây dựng và trưởng thành, trang 7.
[28] Lê Văn Hiến, Năm đầu tiên của giấy bạc cụ Hồ, Tạp chí Thị trường và Giá cả, số 6, 1991, trang 24.
[29] Nhật ký của một bộ trưởng, s.đ.d.
[30] Nhật ký của một bộ trưởng, sđd.
[31] Nhật ký của một bộ trưởng, sđd.
[32] Ông Thiện nhái lời Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên Nguyễn Hoàng: “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân”
[33] Lê Văn Hiền, đảng viên cộng sản, từng bị tù Sơn La; bạn, đồng chí và cộng sự của ông bà Đỗ Đình Thiện. Gia đình Lê Văn Hiền sống chung với gia đinh Đỗ Đình Thiện tại đồn điền Chinê, và cả những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Bắc.  Gia đình Lê Văn Hiền cũng từng là một cơ sở cách mạng ở Hải Phòng.
[34] Tức là đổi cho đồng bào địa phương những hàng hóa họ cần như muối, dầu thắp đèn, vải, diêm, thuốc lào, kim chỉ, phẩm nhuộm… để lấy gạo và thực phẩm..
[35] Bí danh này do anh em trong cơ quan đặt cho ông Thiện. “Hai” nghĩa là người anh thứ hai (sau anh Cả - Nguyễn Lương Bằng), còn “Chi” nghĩa là Chi-nê.
[36] Thanh Đạm, Tìm hiểu lịch sử một xí nghiêp (Nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo), Nhà xuất bản Lao Động, 1979.
[37] Bí danh của ông Đỗ Đình Thiện.
[38] Thi đua lập công là một vở kịch vui theo làn điệu trống quân, còn Cao sinh Cao mẫu là một vở kịch thơ bi tráng với nội dung như sau: đất nước đang có giặc ngoại xâm, một chàng thư sinh giầu lòng yêu nước muốn nhập ngũ đánh giặc, nhưng còn mẹ già yếu không nơi nương tựa. Hiểu thấu lòng con đang bị giằng xé giữa nợ nước và tình nhà, người mẹ đã quyên sinh để cho con yên lòng lên đường cứu nước.
[39] Nguyễn Lương Bằng
[40] Giao thông.
[41] Tên khai sinh do ông bà Thiện đặt là Đỗ Thanh Niên (nghĩa là tuổi trẻ), một lần đến chơi, Bác Hồ đã gợi ý đổi thành Đỗ Thanh Liên (nghĩa là hoa sen xanh) cho hợp hơn với tên con gái.
[42] đồng chí
[43] Trường hợp thứ hai là ông bà Tống Minh Phương, một cơ sở tin cậy của Đảng và Bác trong thời gian hoạt động bí mật ở Trung Quốc.

1 nhận xét: